Bài giảng Chúa Nhật XXXII Quanh Năm, C

1041

Thơ diễn ý:

Xa-Đốc không tin đời sau,
Toa rập bẩy Chúa mưu cao thế nầy:
Bảy anh em ruột, thưa Thầy!
Làm chồng một chị, kiếm bầy con thơ.

Không con, hết thẩy chết đơ,
Hỏi rằng sống lại, Chị vơ anh nào?
Bảy chàng vỗ ngực tự hào:
Chúng tôi chồng vợ, thuở nào lâm li.

Quí ông chả biết tí gì.
Thiên đàng hạnh phúc cần chi vợ chồng.
Bên Chúa không phải đợi trông,
Tìm kiếm hạnh phúc viễn vông cõi trần.

Thiên Chúa là Đấng thường hằng,
Vợ chồng tình nghĩa không bằng Chúa đâu.
Phu thê nghĩa tận tình sâu,
Là chuyện dương thế không lâu không bền. Amen.

A. Video bài giảng

CHÚA NHẬT XXXII QUANH NĂM

Sách Macabêô quyển II 7.1-2.9-14;
Thư Thứ Hai của Thánh Phaolô gửi tín hữu Tessalonica 2.16-3-5
và Phúc Âm Thánh Luca 20.27-40

Tin Mừng chúa Giêsu Kitô theo thánh Luca
Có mấy người thuộc nhóm Xa-đốc đến gặp Đức Giê-su. Nhóm này chủ trương không có sự sống lại. Mấy người ấy hỏi Đức Giê-su: “Thưa Thầy, ông Mô-sê có viết cho chúng ta điều luật này: Nếu anh hay em của người nào chết đi, đã có vợ mà không có con, thì người ấy phải lấy nàng, để sinh con nối dòng cho anh hay em mình. Vậy nhà kia có bảy anh em trai. Người anh cả lấy vợ, nhưng chưa có con thì đã chết. Người thứ hai, rồi người thứ ba đã lấy người vợ goá ấy. Cứ như vậy, bảy anh em đều chết đi mà không để lại đứa con nào. Cuối cùng, người đàn bà ấy cũng chết. Vậy trong ngày sống lại, người đàn bà ấy sẽ là vợ ai, vì cả bảy đều đã lấy nàng làm vợ?” Đức Giê-su đáp: “Con cái đời này cưới vợ lấy chồng, chứ những ai được xét là đáng hưởng phúc đời sau và sống lại từ cõi chết, thì không cưới vợ cũng chẳng lấy chồng. Quả thật, họ không thể chết nữa, vì được ngang hàng với các thiên thần. Họ là con cái Thiên Chúa, vì là con cái sự sống lại. Còn về vấn đề kẻ chết trỗi dậy, thì chính ông Mô-sê cũng đã cho thấy trong đoạn văn nói về bụi gai, khi ông gọi Đức Chúa là Thiên Chúa của tổ phụ Áp-ra-ham,Thiên Chúa của tổ phụ I-xa-ác, và Thiên Chúa của tổ phụ Gia-cóp. Mà Người không phải là Thiên Chúa của kẻ chết, nhưng là Thiên Chúa của kẻ sống, vì đối với Người, tất cả đều đang sống.” Bấy giờ có mấy người thuộc nhóm kinh sư lên tiếng nói: “Thưa Thầy, Thầy nói hay lắm.” Thế là, họ không dám chất vấn Người điều gì nữa.

Đó là Lời Chúa! Lạy Chúa Kitô, ngợi khen Chúa!

I. Giáo huấn Phúc Âm:

Có đời sau, tức có đời sống sau khi chết.

Đời sống sau khi chết: Hạnh phúc bất diệt, siêu thoát như thiên thần, không cần đời sống vợ chồng, người ta không còn tìm kiếm một hạnh phúc nào khác ngoài chiêm ngưỡng thánh nhan Thiên Chúa.

II. Vấn nạn Phúc Âm:  

1. Luật lấy vợ goá của anh hay em mình:

Trong tiếng Do Thái gọi là Yibbum, tiếng La-tinh gọi là Levir, có nghĩa anh em chồng, luật Yibbum hay Levir buộc anh hay em của người đàn ông chết mà không có con trai nối dòng phải lấy người vợ góa của anh hay em mình. Người vợ góa cũng bị buộc phải lấy anh hay em trai của chồng mình để sinh con trai cho dòng họ nhà chồng cũng như giữ gia sản bên chồng không cho thất thoát sang những gia đình khác.

Luật Yibbum phát xuất từ Sách Đệ Nhị Luật chương 25:5-10 nói rằng: Khi có những anh em ở chung với nhau, và một trong những người đó chết mà không có con trai, thì vợ của người chết không được lấy một người xa lạ, ngoài gia đình; một người anh em chồng sẽ đến với nàng, lấy nàng làm vợ và chu toàn bổn phận của một người anh em chồng đối với nàng.  Đứa con đầu lòng nàng sinh ra sẽ duy trì tên của người anh em đã chết ; như vậy tên của người chết sẽ không bị xoá khỏi Ít-ra-en.  Nhưng nếu người đàn ông ấy không thích lấy chị dâu hay em dâu mình, thì nàng sẽ lên cửa thành, gặp các kỳ mục và thưa : “Người anh em chồng tôi từ chối không chịu lưu truyền tên tuổi của anh em mình ở Ít-ra-en, người ấy không muốn chu toàn bổn phận của một người anh em chồng đối với tôi.”  Các kỳ mục trong thành sẽ gọi người đàn ông đến và nói với người ấy. Người ấy sẽ đứng đấy và nói : “Tôi không thích lấy cô ấy.”  Người chị dâu hay em dâu sẽ đến gần người ấy trước mặt các kỳ mục, rút một chiếc dép người ấy ra khỏi chân, nhổ vào mặt người ấy và lên tiếng nói : “Kẻ không xây nhà cho người anh em mình thì phải xử như thế đó !” Trong Ít-ra-en, người ta sẽ gọi tên người ấy là “nhà kẻ bị lột dép.”

2. Đời sống độc thân linh mục Công giáo theo nghi lễ Rôma có phải là dấu chứng của đời sống mai sau “trên thiên đàng, người ta không còn dựng vợ gả chồng không?” Hiện tại Giáo sĩ Công giáo bị tố cáo nặng nề về tội Child Sexual Abuse tức lạm dụng tính dục với trẻ em, đặc biệt giữa linh mục với các trẻ em trai. Tại sao Giáo hội không bỏ luật độc thân linh mục, để linh mục có vợ con bình thường và tránh được những tội đáng khinh trên?

Xin đồng ý rằng: Độc thân linh mục là luật Giáo hội Công giáo theo nghi lễ La-tinh, chứ không là luật Chúa. Nó cũng giống như luật ăn chay kiêng thịt trong các ngày Thứ Tư Lễ Tro và Thứ Sáu Tuần Thánh, tức Giáo hội có thể thay đổi, miễn chuẩn hay gia giảm cách nào đó tuỳ theo hoàn cảnh. Tuyệt đại da số các tông đồ, các môn đệ Chúa đều là những người có đời sống gia đình. Cho dù nhiều Giám Mục và linh mục đã giữ lời khuyên sống độc thân ngay từ những thế kỷ đầu, nhưng luật độc thân linh mục Công giáo theo nghi lễ La-Tinh chỉ thành hình chính thức với Công đồng Tridentinô năm 1563.

Khi học về khoản Giáo luật 277, luật độc thân linh mục Công giáo theo nghi lễ Rôma,  trong Class notes for the use of students, tôi thấy có những thống kê như sau trong lịch sử thành hình luật độc thân linh mục Công giáo theo nghi lễ La-tinh:

Có 7 Giáo Hoàng có vợ con trên tổng số 265 Giáo Hoàng cho đến ngày nay. Trong số nầy có bốn Giáo Hoàng có vợ làm thánh.

Thánh Giáo Hoàng Phêrô, tông đồ, Giáo hoàng tiên khởi.
Thánh Giáo Hoàng Felix III năm 483-492, có hai con.
Thánh Giáo Hoàng Hormidas năm 514-523, có một con.
Thánh Giáo Hoàng Silverus năm 536-537, có vài đứa con.
Giáo Hoàng Hadrian II năm 867-872 có một đứa con gái.
Giáo Hoàng Clêmentê IV năm 1265-1268 có hai con gái.
Giáo Hoàng Felix V năm 1439-1449 có một con trai.

Có 11 Giáo Hoàng, có 5 vị là thánh, là con trai của các Giáo Hoàng hay của các Giáo sĩ:
Thánh Giáo Hoàng Damascus I, Giáo Hoàng từ năm 366-384 Ngài là con trai của Cha Antonius, linh mục cai quản đền thờ San Lorenzo ở Rôma. Có sách ghi Ngài là con của Cha Thánh Lorenzo.
Thánh Giáo Hoàng Innocentê I, Giáo Hoàng từ năm 401-417 là con trai của Giáo Hoàng Anastasius I, làm Giáo Hoàng từ năm 399-401
Giáo Hoàng Boniface, Giáo Hoàng từ năm 418-422, là con trai của một linh mục.
Thánh Giáo Hoàng Felix, Giáo Hoàng từ năm 483-492, là con trai của một linh mục.
Giáo Hoàng Anastasiius II, Giáo Hoàng từ năm 496-498, là con của một linh muc.
Thánh Giáo Hoàng Agappitus I, Giáo Hoàng năm 535-536, con của linh mục Gordiaous
Thánh Giáo Hoàng Silverus, Giáo Hoàng 536-537, con trai của Thánh Giáo Hoàng Homidas, Giáo Hoàng 514-523
Giáo Hoàng Deusdedit, Giáo Hoàng năm 882-884, con của một linh mục.
Boniface VI, Giáo Hoàng 896-896, Con của Giám Mục Hadrian.
Giáo Hoàng Gioan XI, Giáo Hoàng 931-935 con trai của Giáo Hoàng Sergius III, Giáo Hoàng 904-911.
Giáo Hoàng Gioan XV, Giáo Hoàng năm 989-996, con của linh muc Lêo.

Sau năm 1139, lúc mà luật độc thân linh mục đang bàn cải, sau đó đi đến chỗ thành hình thì cũng có 6 Giáo Hoàng có con ngoại hôn, tức những đứa con ngoài hôn thú hay bất hợp luật, illegitimate children.

Giáo Hoàng Innocentê VIII, Giáo Hoàng từ năm 1484-1492 có vài đứa con ngoại hôn.
Giáo Hoàng Alexander VI, năm 1492-1503 cũng có vài đứa con bất hợp luật.
Giáo Hoàng Julius năm 1503-1513 có ba cô con gái ngoại hôn.
Giáo Hoàng Phaolô III năm 1534-1549 có ba con trai và một con gái ngoại hôn.
Giáo Hoàng Pius IV, năm 1559-1565 có ba con trai bất hợp luật.
Giáo Hoàng Grêgôriô XII, năm 1572-1585 có một con trai ngoại hôn.

Chắn chắn có người chỉ trích rằng: Tại sao vạch áo cho người xem lưng?
Đây là sự thật lịch sử, không nên giấu và cũng không thể giấu. Khi nêu những sự kiện lịch sử trên, tôi muốn nói rằng: Giáo Hội hay Hội Thánh là Thánh Thiện, vì do Chúa là Đấng Thánh sáng lập, vì bao gồm những thành phần được thánh hóa qua bí tích Rửa tội và tất cả đang trên hành trình về nơi thánh là thiên đàng. Nhưng đây cũng là một Giáo Hội trần thế, đồng hành với nhân loại, mang những hậu quả của tội lỗi. Hội Thánh nầy trên đường nên thánh, nên mọi luật lệ đều phải có lịch sử hình thành như luật độc thân linh mục.

Luật độc thân linh mục đã phải trải qua đường dài lịch sử với nhiều quan niệm đối nghịch và sau cùng thành luật. Luật độc thân linh mục thành hình vì như Hồng Y Joseph Ratzinger trong diễn từ “muối cho trần gian” xác tín:Quả vậy, có những người không kết hôn vì từ khi lọt lòng mẹ, họ đã không có khả năng; có những người không thể kết hôn vì bị người ta hoạn; lại có những người tự ý không kết hôn vì Nước Trời. Ai hiểu được thì hiểu.” (Matthêô 19:12).

Giáo luật qui định rất rõ về mục đích tại sao linh mục phải giữ luật độc thân:

Ðiều 277: (1) Các giáo sĩ buộc phải giữ sự khiết tịnh hoàn toàn và trọn đời vì Nước Trời, vì vậy họ phải ở độc thân, là một ơn đặc biệt của Thiên Chúa, nhờ đó các tác viên thánh có thể gắn bó với Ðức Kitô dễ dàng hơn với một con tim không bị chia sẻ và được thong dong hơn để hiến thân phục vụ Thiên Chúa và nhân loại.

(2) Các giáo sĩ phải khôn ngoan khi giao tiếp với những người mà sự năng lui tới với họ có thể gây nguy hại cho việc giữ sự khiết tịnh hoặc sinh ra gương xấu cho giáo hữu.

(3) Giám Mục giáo phận có thẩm quyền ra những qui luật cụ thể hơn trong vấn đề này và xét định về việc tuân hành trong những trường hợp riêng biệt.

Luật độc thân linh mục ban hành và phải tuân giữ tự nguyện vì nước trời. Vì Nước Trời hay vì Chúa hay vì phần rỗi các linh hồn… tất cả đều căn cứ trên Chúa Giêsu, người độc thân mẫu mực. Linh mục hành xử in Persona Christi, trong con người của Chúa Kitô. Nên phải độc thân như Chúa Kitô. Trong sách Dân Số chương 1: 48-53 cũng đề cập dến linh mục được dành riêng cho chi tộc Lêvi. Những tư tế nầy lấy Chúa làm gia nghiệp.

Trong Thư I gửi Giáo Đoàn Corintô 7-25, Thánh Phaolô cũng khẳng định: Độc thân là món quà đặc biệt do Chúa ban. Người sống độc thân thì dễ thuộc về Chúa hơn. Tuy nhiên sống đời sống gia đình cũng không phải là xấu.Tôi muốn anh chị em không phải bận tâm lo lắng điều gì. Đàn ông không có vợ thì chuyên lo việc Chúa : họ tìm cách làm đẹp lòng Người. Còn người có vợ thì lo lắng việc đời: Họ tìm cách làm đẹp lòng vợ, thế là họ bị chia đôi. Cũng vậy, đàn bà không có chồng và người trinh nữ thì chuyên lo việc Chúa, để thuộc trọn về Người cả hồn lẫn xác. Còn người có chồng thì lo lắng việc đời: Họ tìm cách làm đẹp lòng chồng. Tôi nói thế là để mong tìm ích lợi cho anh chị em, tôi không có ý gài bẫy anh chị em đâu, nhưng chỉ muốn đề nghị với anh chị em một điều tốt, để anh chị em được gắn bó cùng Chúa mà không bị giằng co”

Giáo sĩ Công Giáo theo nghi lễ Rôma hiện tại bị tố cáo nặng nề vì tội lạm dụng tình dục trẻ em. Những tổng giáo phận lớn như Boston ở Mỹ đã gần như phá sản vì bồi hoàn thiệt hại trong những vụ kiện lạm dụng tình dục. Năm 2008, Tổng Giáo Phận Los Angeles ở Mỹ đã phải đền bồi một số tiển gần 650 triệu mỹ kim vì những vụ lạm dụng tình dục của giáo sĩ. Ngày 18 tháng 3 năm 2010 vừa qua, Đức Giáo Hoàng Bênêdictô thứ XVI đã phải công khai xin lỗi thế giới và dân Ái nhĩ Lan vì nạn lạm dụng tình dục gây ra bởi giáo sĩ của Giáo Hội Ái Nhĩ Lan.

Từ những thảm kịch nầy, người ta hô hào hủy bỏ luật độc thân linh mục. Tuy nhiên xin hỏi là: Vì linh mục công giáo La Mã phải sống độc thân nên mới xảy ra lạm dụng tình dục trẻ em hay vì nguyên do gì khác? Vì những Giáo Hội Tin Lành như Anh Giáo, hay Lutêrô hay United Church, Giáo sĩ những Giáo Hội nầy đâu có giữ luật độc thân, nhưng cũng có những vụ kiện lạm dụng tình dục trẻ em?

Vậy thì vấn đề không nằm chỗ: Độc thân linh mục mà đúng hơn vì linh mục không hành xử trong con người của Chúa Kitô, người tự nguyện độc thân vì nước trời hay nói khác đi vì “lòng nhiệt thành nhà Chúa thiêu đốt tâm can con!” (Thánh Vịnh 69:9). Linh mục không giữ được độc thân vì còn yêu mình nhiều hơn yêu Chúa hay chưa sống chết vì nước trời và vì phần rỗi nhân loại. 

3. Tại sao lại không còn dựng vợ gã chồng trên thiên đàng?

Điều nầy không có nghĩa là những ai đã là vợ chồng ở dưới trần gian từ trước thì trên thiên đàng không còn nhìn mặt nhau nữa hay ngoãnh mặt làm ngơ. Cũng không có nghĩa là ai đã là vợ chồng ở dưới trần gian thì cố quên đi và phải lấy làm xấu hỗ vì quan hệ khăng khít vợ chồng. Chúa không hề để cập đến chuyện nầy. Ngài chỉ nói là người ta sống như thiên thần, tức chuyện dựng vợ gã chồng không cần thiết.

Tại sao không cần? Chúa dựng Eva để làm vợ Adong, vì “Đàn ông ở một mình không tốt, Ta sẽ cho anh ta một người giúp đỡ!” Nên chuyện vợ chồng là để chống lại cô đơn và giúp đỡ nhau, chúng ta gọi là mutual support. Trên thiên đàng, chúng ta được vây quanh bởi muôn ngàn thần thánh như trong Sách Khải Huyền chương 7, câu 9. Hơn nữa không ai cảm thấy cô đơn cả và không ai cảm thấy cần sự giúp đỡ của người khác cả, vì đã quá thỏa mãn và đầy đủ.

Mục đích của hôn nhân là để sinh con đẻ cái cho đầy mặt đất hai nói khác đi là để đóng góp vào chương trình sáng tạo của Thiên Chúa. Trên thiên đàng không cần sinh sản thêm. Vả lại, đời sống tính dục hay quan hệ sinh lý vợ chồng là cách thỏa mãn nhau. Trên thiên đàng Chúa thỏa mãn chúng ta khôn cùng. Hạnh phúc thiên đàng không còn làm cho chúng ta có một khao khát nào khác. Nên không cần chuyện thoả mãn tình dục trong vấn đề vợ chồng.

III. Thực hành Phúc Âm:

Đi tu làm linh mục là sướng nhất trên đời.
Đi tu làm linh mục, có Chúa là có tất cả, đâu còn cần gì nữa.

Đây là những câu nói rất thường nghe, nhưng không phát xuất từ người đi tu hay từ linh mục, nhưng từ người không đi tu hay từ người chuyên khuyến khích người khác đi tu.

Ngày xưa tôi nghe chính miệng ba của một anh bạn cùng đi tu nói: Thằng T. mà làm cha là tao sẵn sàng đốt nhà bỏ. Căn nhà ông rất đáng giá: Nhà ngói mới và rộng đẹp. Người dân quê muốn diễn tả ý rằng: Căn nhà nầy không là gì so với chức linh mục. Ông không cần nhà ở, chỉ cần con ông làm linh mục là ông mãn nguyện.

Cũng có người nhắn nhủ con mình: Con làm bác sĩ, kỷ sư… không làm cho mẹ mừng. Mẹ mừng nhất là con được làm linh mục.

Nhiều lời khuyến khích và đánh giá chức linh mục thật cao cả như vậy. Vì đi tu là sướng nhất, là cao trọng nhất, là đầy đủ nhất. Sướng nhất vì được người lớn trẻ em đều gọi bằng Cha, được mọi người cung phụng. Cao trọng nhất vì được làm việc thánh như dâng lễ, giải tội. Đầy đủ nhất vì nhiều quà cáp, nhiều ưu đãi. Chính vì những đánh giá nầy mà có nhiều người buộc phải làm linh mục.

Thực tế, linh mục là con người như chúng ta, nhưng hành xử như Chúa. Nên cái nghiệt ngã là bắt con người làm chuyện thần thánh. Luật độc thân linh mục là chuyện thần thánh thực hiện trong con người phàm tục. Hàng ngày tôi quan sát 8 linh mục già nua sống chung nhà với tôi. Tôi thật thương các Ngài: Vì cô đơn, bệnh hoạn, không thân nhân, không bạn bè hay con cháu đến thăm… lủi thủi một mình. Không việc gì làm, nên bao giờ cũng đến ngối chờ sẵn trong nhà cơm dù còn 10 phút nữa mời đến giờ ăn.

Hàng ngày những linh mục già nua cô đơn nầy là một nhắc nhở cho tôi: Chả bao lâu nữa tôi cũng như vậy. Những linh mục nầy, với đời sống cô đơn đến ngao ngán làm tôi ý thức sự hy sinh lớn lao của các Ngài trong đời sống độc thân linh mục vì nước trời. Nước Trời sẽ đến. Nước trời có Chúa, có muôn thần thánh hát suốt ngày đêm chung quanh. Nhưng phải đánh đổi bằng một cuộc sống thật cô đơn và buồn tẻ trong tuổi già, không một tiếng hát, không một ai thèm hỏi thăm.

Không cần có một tổ chức rầm rộ. Chỉ cần năm ba gia đình trong giáo xứ rỉ tai nhau, chia phiên nhau đi thăm quí Cha già hưu trí chung quanh chỗ mình ở. Thăm các linh mục già cô đơn để thông cảm và tha thứ cho những linh mục “sa ngã” vì sợ cô đơn, để biết xem đi tu làm linh mục sống đời độc thân “khoẻ” đến chừng nào, để biết những linh mục sống đời độc thân đã hy sinh đến chừng nào, để thông cảm sự nóng tình hay phản ứng hơi bất thường nơi Cha xứ của anh chị em. Linh mục thật cao cả, vì phàm nhân mà làm khanh tướng, người phàm mà làm việc của Chúa. Nước Trời thật xa, hạnh phúc mai sau cũng không gần. Cái cận thân hàng ngày là cô đơn, trồng vắng và thiếu thông cảm trong đời linh mục, nhất là ở tuổi già.

B. Bài giảng File Word tại đây

C. Thơ, nhạc diễn ý bài Phúc Âm Chúa Nhật XXXI TN, C tại đây