vo van
Nhất tự vi sư, bán tự vi sư.
Mình vào lớp Đệ Thất B (Đệ Bát) tại Chủng Viện Á Thánh Quý, Cái Răng 1962 và học Căn bản Pháp Văn Français Elémentaire trong quyển sách có hình Con Gà Trống Cồ ngoài bìa (biểu tượng cho sức mạnh và tinh thần dân Gaulois) của Tác Giả G. Mauger, với Thầy Antôn Trần Thọ Triết.
Môn nầy rất quan trọng thuộc hệ số 3, làm cho ai giỏi thì lên đọt cây, còn ai dỡ thì bị hệ số nầy kéo trì xuống gốc, nên dễ bị cho về nhà với lý do không đủ trí khôn để tiếp tục con đường kẻ sĩ của đạo mình. Mà hầu như hơn 1/3 đồng môn trong lớp không qua khỏi cửa ải Pháp văn (và cộng thêm cả Latin nữa) trong những năm đầu Trung Học Đệ Nhất Cấp thời kỳ ấy, dù có được những vị thầy tận tâm chỉ dạy. Có thể Thầy Triết còn dạy tiếng Tây một số lớp hay môn khác mà mình không biết rõ.
Mỗi tuần 3 buổi, mỗi buổi 3 tiếng đồng hồ, học trò lớp mình phải tập làm quen với tiếng Pha- Lang-Sa A B C, rồi ráp vần, học từ ngữ, tập đọc, học văn phạm, chia động từ và tập làm câu đơn giản. Hai buổi chiều trước cơm tối mỗi tuần, lại có hai tiếng đồng hồ làm bài tập. Vào tam cá nguyệt chót, sau Tết 1963, cả lớp 40 trò, bắt đầu làm quen với căn bản Latin do Thầy Triết chỉ dạy. Trước hết là mẫu chia 1, danh từ loại Rosa, ae, f và mẫu chia 2, loại Dominus, i, m; Templum, i, n.
Trong giờ lớp, có lần Thầy Triết cho biết thầy sinh quán tại Khánh Hưng, Sóc Trăng, Ba Xuyên. Sau một thời gian tu dòng Chúa Cứu Thế tại Huế, Thầy về Địa Phận Cần Thơ, học 2 năm Triết tại Đại Chủng Viện Thánh Giuse Sài Gòn 1960-62. Sau nầy mình biết thêm, Thầy có người cha là nhân viên rồi lên chức Trưởng Ty Nông Nghiệp/Điền Địa Tỉnh Ba Xuyên thời kỳ còn người Pháp, rồi qua thời Việt Nam Cộng Hòa. Thầy có 1 em gái và mẹ mất sớm. Có thể Cha của thầy và cả thầy đều là học sinh của Trường Tabert Lasan tới Sóc Trăng từ 1914. Nên Họ Đạo nầy có nhiều nhân tài và trí thức so với nhiều họ đạo khác không có trường Cao cấp Công giáo.
Sau một năm dạy học tại Cái Răng 1962-63, Thầy Triết bắt đầu năm thứ I Thần Học tại Đại Chủng Viện trên, rồi đổi hướng. Sau đó Thầy tình nguyện trở lại Chủng Viện ATQ (Á Thánh Quý), dạy học không công, gọi là trả ơn Địa Phận trong chừng 2 năm 1965-67, rồi đi khóa huấn luyện Hạ Sĩ Quan tại Trường Bộ Binh Thủ Đức. Thầy bị thương gót chân sau khi ra trường và giải ngũ chừng 1968 hay không lâu sau đó, rồi lập gia đình và sống tại Phường 5, họ đạo quê nhà tới mãn đời.
Thầy Triết có biệt tài nghề điện tử thời rất sớm. Từ lúc dạy tại Á Thánh Quý, Thầy đã mua đủ linh kiện, ráp nối thành máy phát thanh, radio và máy ampli khếch đại. Nên khi giải ngũ, Thầy sửa chữa máy thu thanh, TV, sau 1975 giúp thiết đặt hệ thống âm thanh cho nhiều nhà thờ.
Người vợ của Thầy Triết là cô Hồng. Cô là cháu của LM Lê Văn Lẫm ATQ 1962 (gọi Cha Lẫm bằng cậu gần xa?). Cả 2 gia đình cậu cháu gốc gác Họ Đạo Nằng Rền (gần Bạc Liêu) di cư ra Sóc Trăng thời chiến tranh thập niên 1960. Một người em gái của cô Hồng, đã là vợ của anh Phêrô Bùi Công Khẩn ATQ 1962, nhà tại Sóc Trăng (cùng lớp Đức Cha Thiên) định cư chương trình H.O gần 30 năm tại thành phố Charlotte, N. Carolina, USA. Còn riêng người con gái lớn của Thầy Triết và Cô Hồng, đã định cư tại Mỹ chừng hơn 20 năm nhờ nhịp cầu hôn nhân may mắn.
Thời Cha Nguyễn Tấn Thinh làm bổn sở (1974-1992), Thầy Triết đã tham gia vào ban Mục vụ tại Giáo xứ Sóc Trăng, GP Cần Thơ, đóng góp công sức và sống âm thầm khiêm tốn cho tới cuối đời 23.02.2019. Hưởng dương 81 tuổi.
Nhất tự vi sư, bán tự vi sư. Học trò luôn nhớ ơn và cầu cho Thầy an nghỉ trong Chúa từ ngày ấy.
Xin bổ túc… Lớp Phan Sinh 1963 chúng tôi có dịp học tiếng Pháp với Thầy Triết. Tôi không nhớ chút nào những gì Thầy dạy , nhưng nhớ chuyện Thiery, chuyện Pháp của Robert de Bois. Chuyện hay và dài… Thầy Pháp Triết kể nhỏ giọt từng khúc, từng khúc, ly kỳ và hấp dẫn vô cùng. Các chú bé cứ há hốc mồm mà nghe và mong sớm đến giờ học Pháp văn với Thầy Triết để nghe truyện Thiery. Tôi thầm cảm phục Thầy Triết ở nếp sống nghèo khổ, đơn giản và rất âm thầm với công việc của mình.
Trần Thế Tuyên