Phúc Âm, Tin Mừng | Từ vựng Công giáo | Lm Stêphanô Huỳnh Trụ

239

Bài viết của Cha Stêphanô Huỳnh Trụ có sự đóng góp ý kiến và sửa lỗi của anh Tâm Thành và bà Bernadette Pauline Ngọc Tuyết.
_______

Ai viết các sách Tin Mừng? | Nhà Thờ Thái Hà1.

Bắt đầu mùa Chay, Giáo Hội kêu gọi chúng ta: “Hãy ăn năn tội và tin vào Phúc Âm”[1] (Mc 1,15: Paenitemini et credite evangelio). Evangelium trước dịch là Phúc Âm, nay càng ngày càng nhiều người thích dịch là Tin Mừng, hình như điều này không thể đảo ngược được[2].

2.

Thực ra, từ evangelium phát xuất từ tiếng Hy Lạp là euaggelioneu (eu) = tốt lành, vui mừng; aggelion = tin tức, sứ điệp. Theo nghĩa phàm tục của người Hy Lạp euaggelion là một tin tốt, đặc biệt là tin báo chiến thắng. Trong thời bình của Đế quốc Rôma, những biến cố lớn của hoàng đế (người được xem như là thần linh và là cứu chúa) đều được ca tụng như những evangelium. Ngôn ngữ Kitô giáo vay mượn động từ euangelizomai “loan báo tin tốt lành” ở Cựu Ước, với ý nghĩa đặc biệt đã có sẵn: Loan báo ơn cứu độ (Is 40,9; 41,27; 52,7; 61,1)[3].

Đối với chúng ta, evangelium chỉ bản văn kể lại cuộc đời Chúa Giêsu hoặc chỉ những phân đoạn của bản văn đó đọc trong thánh lễ. Trên phương diện thần học, evangelium được hiểu là:[4]

    1. Tin về ơn cứu độ do Đấng Mêssia mang đến cho loài người.
    2. Giáo huấn của Chúa Kitô, do các tông đồ rao giảng.
    3. Sự ghi chép của lời giáo huấn này thành sách.
    4. Mỗi cuốn trong bốn cuốn ghi lại lời giảng dạy này và được nhận vào Thư Quy.

Trong Thánh Kinh, từ euaggelion được sử dụng rất nhiều (khoảng 20 lần trong Cựu Ước và khoảng 150 lần trong Tân Ước).

Để dịch từ euaggelion, các bản dịch tiếng Anh dùng những từ như: Evangel, gospel, good news, good tidings, glad tidings, joyful message…; các bản dịch tiếng Pháp cũng dùng những chữ như: Évangile, bonne nouvelle, joyeuse messagère,… và ngay cả trong Nova Vulgata cũng dùng nhiều chữ như: Evangelium, adnuntiantes, adnuntiantis bonum, ostenderetur, bona nuntians… Trong khi đó, các bản dịch tiếng Việt có thế giá nhất (của UBPV HĐGMVN, Nhóm PDCGKPV, Cha Nguyễn Thế Thuấn – dựa vào các bản Hy Lạp) thì chỉ dịch là tin mừng, không dùng đến từ phúc âm! (Bản dịch của Cha Trần Đức Huân dựa vào bản Latinh Phổ Thông (Vulgata) thì dịch là tin lành, phúc âm, người đem tin… )[5].

3. Tìm hiểu từ Phúc Âm và Tin Mừng trong tiếng Việt.

Phúc: Chữ Hán, có 4 chữ là: (1) 福 Điều may mắn, tốt lành lớn, trái với họa. (2) 腹 Cái bụng. (3) 覆 Tái, lại, lần nữa, (có hành động) lặp lại hoặc đáp lại. (4) 輻 Nan hoa, căm xe.

Âm: Chữ Hán, có 3 chữ là: (1) 陰 có 3 nghĩa: (1) Một trong hai nguyên lý cơ bản của trời đất (đối lập với dương) từ đó sinh ra muôn vật (theo quan niệm Tống nho); (2) Một trong hai mặt đối lập nhau, mặt trăng đối lập với mặt trời; (3) Sự kiện mang tính chất tĩnh, lạnh hay sự vật thuộc về nữ tính hoặc huyết dịch; (4) Bé hơn số không; (5) Kín, ngầm, không lộ ra. (2) 音 (âm) có 3 nghĩa: (1) Tiếng nói, cái mà tai có thể nghe được; (2) Đơn vị ngữ âm nhỏ nhất; (3) Tin tức. (3) 瘖 Muet de naissance: âm ả.

† Nếu hiểu theo nghĩa hẹp, phúc âm (福音) có nghĩa là “tiếng nói may mắn, tốt lành lớn”. Nhưng nếu tìm hiểu rộng hơn, thì chữ phúc – theo triết lý Đông phương – bao hàm tất cả những điều thiện hảo mà con người có thể hình dung hay mơ tưởng. Thật vậy, phúc là một trong cửu trù Hồng Phạm do Trời ban cho vua Vũ để “di luân di tự” (luân thường vì thế mà bày ra có thứ tự), và Kinh Thư chia phúc ra năm loại, gọi là ngũ phúc [6]:

(1) Trường thọ (sống lâu dài, không đoản mệnh); (2) Phú quý (tiền của rất nhiều, địa vị tôn quý); (3) Khang ninh (thân thể khoẻ mạnh, tâm hồn yên lành); (4) Hiếu đức (tính lương thiện, nhân hậu, bình tĩnh); (5) Thiện chung (“chết lành”: có thể tiên liệu thời kỳ chết của mình. Khi lâm chung không gặp tai hoạ, thân thể không đau đớn vì bệnh tật, trong lòng không vương vấn và phiền não, ôn hoà tự tại rời khỏi nhân gian).

Cuộc đời hạnh phúc mỹ mãn khi được cả ngũ phúc, nếu thiếu điều nào thì vẫn chưa được phúc hoàn toàn. Ví dụ: Người trường thọ mà nghèo khổ, người phú quý mà yểu mệnh, người sang giàu nhưng luôn phải lao tâm khổ xác, người nghèo hèn mà thiện chung, người phú quý, trường thọ nhưng cuối đời gặp tai hoạ chết bất đắc kỳ tử… Cảnh ngộ cuộc đời phức tạp nhiều không kể hết. Đó là mới nói đến sự biến hoá của ngũ phúc. Chỉ khi toàn bộ ngũ phúc đều có cả mới được gọi là thập toàn thập mỹ, còn các trường hợp còn lại đều là tốt đẹp không trọn vẹn.

Trong ngũ phúc, hiếu đức (phúc thứ tư) là quan trọng nhất. Đức là nguyên nhân và là cái gốc của phúc. Phúc là biểu hiện và là kết quả của đức. Người có phúc hiếu đức thì lương thiện, nhân hậu, hiền hoà, thuần khiết, lúc nào cũng bố thí, hay làm việc thiện, tích nhiều ân đức, nhờ đó có thể bồi dưỡng bốn phúc khác, làm cho nó không ngừng phát triển. Do đó, hiếu đức được xem là “phúc tướng”.

Theo Lục thư [7], chữ phúc (福) thuộc “hình thinh”. Viết bộ thị (示 còn đọc kỳ) và thinh bức (畐 bị), có nghĩa phù hộ, là thần ban điều lành giúp con người, nên viết bộ thị (示) và dùng bức (畐) với âm bị, có nghĩa là mãn (nghĩa là có đầy đủ, không gì không thuận lợi là phúc), tức là: Trời đất ban xuống những điều tốt lành để thoả mãn nguyện vọng của con người, nên dùng thinh 畐.

Thuyết Văn dùng chữ phúc với nghĩa là bị (bị là mọi việc đều thuận lợi). Chữ phúc (福) đọc âm “phúc”, có nghĩa là mình xin cho được nhiều phúc.

Âm (trong từ phúc âm (福音) có nghĩa là tiếngthuộc loại “chỉ sự”. Viết chữ ngôn (言, lời ) ngậm dấu ngang (—) là cái dấu để tạo chữ, không phải là chữ nhất (一), quy định dấu ngắn thì đặt ở trên dấu ngang, dấu dài đặt ở dưới. Thí dụ: chữ thượng (上) cách trình bày của loại chỉ sự là dấu ngang (二); chữ hạ (下) là . Như vậy chữ ngôn (言) phần dưới có chữ khẩu (口), chữ khẩu ngậm dấu ngang (—). Thinh do tâm sinh ra, biểu lộ ra ngoài là âm, tức là cái hợp thinh mà được nhịp nhàng hoà hợp với các thinh để thành văn, thì gọi là âm.

† Về từ tin mừng:

– Tin: Tiếng Nôm có 3 nghĩa: (1) Cho là thật; là chắc chắn, đáng trông cậy vào, đáng được trao tâm tình, của cải, trách nhiệm. (2) Điều được truyền đi (hay báo cho biết) về sự việc, tình hình xảy ra. (3) Trúng, đúng, đạt đến độ chính xác cao.

– Mừng: Tiếng Nôm có 2 nghĩa: (1) Cảm thấy thích thú, vui sướng. (2) Tỏ ý chia vui bằng lời nói hay tặng phẩm.

4.

Như vậy, từ tin mừng có nội dung đơn giản là tin tức (đem lại) niềm vui mừng, “hỉ tín”, trong khi từ phúc âm, theo văn hoá Á Đông, bao hàm nhiều ý tưởng phong phú và sâu sắc hơn rất nhiều. Phải chăng vì có sự khác biệt giữa những tin vui phàm tục (tin thắng trận, tin kẻ thù bị tiệu diệt, tin người son sẻ có mang…) với tin mừng bất diệt (tin loan báo ơn cứu độ, lời hằng sống của Chúa Giêsu…) mà các bản Thánh Kinh La ngữ, cũng như những bản dịch ngoại ngữ khác, đã không chỉ sử dụng có một từ evangelium?

Các ngôn ngữ phương Tây, vì không có từ ngữ khả dĩ, nên hầu hết đều vay mượn từ hoặc âm evangelium để diễn tả nội dung tin mừng bất diệt [8]. Ngày xưa, các vị thừa sai cũng đã dịch âm evangelium sang tiếng Việt là Evang, Sách Evang. Nhưng sau đã có từ Phúc Âm với ý nghĩa triết lý Đông phương rất sâu sắc, mà tiếng các nước phương Tây không thể có được, vậy tại sao ngày nay chúng ta bỏ qua mà chỉ dùng một từ Tin Mừng với một ý nghĩa không có gì sâu sắc cả.

_________________________________

[1] KINH THÁNH, Lm. Trần Đức Huân dịch , Sài Gòn, 1968.

[2] Không tìm thấy chữ Phúc Âm trong toàn bộ THÁNH KINH do Nhóm PDCGKPV dịch, ấn bản điện tử của VietCatholic Bible 2000-2003.

[3] Hipri: mebassèr (annunciation, message, news, tidings), mebasseret (Is 40,9): good tidings.

[4] x. Olivier de La Brosse, DICTIONNAIRE DE LA FOI CHRÉTIENNE: Évangile

[5] Có thể trưng vài dẫn chứng như sau:

[6] “Cửu ngũ phúc: Nhất viết thọ, nhị viết phú, tam viết khang ninh, tứ viết du hiếu đức, ngũ viết khảo chung mệnh” (KINH THƯ, thiên Hồng Phạm, 33).

[7] 6 quy tắc tạo nên chữ Hán gọi là Lục thư: (1) Tượng hình. (2) Chỉ sự. (3) Hội ý. (4) Hình thinh. (5) Chuyển chú. (6) Giả tá.

[8] Esperanto: evangelio; Italian: Evangelo; Pháp: Evangile; Anh: Evangel; German: Evangelien; Hà Lan: evangelie; Czech: evangelium; Norwegian: evangelium; Swedish: evangelium; Hungarian: evangélium; Phần Lan: evankeliumi; Frisia: evangeelje; Malaysia: evangelio; Portuguese: evangelho; Rumani: evanghelie; Nga: евангелие; Serbia: Евангел; Tây Ban Nha: evangelio; Bulgarian: евангелие (evangel); Ukranian: Євангель. Tiếng Anh (Anglo-Saxon) cũng cố gắng tạo chữ riêng để dịch chữ evangelium là godspel (khoảng từ 450-1100), gospel (từ 1100 đến nay). Gospel = God’s spell (Word of God) hoặc good spell (good news, good message).