Mông Cổ: Người dân có tin vào Chúa ở đất nước của Thành Cát Tư Hãn không?

194

By phanxicovn – 15/08/2023

Hình ảnh Thành Cát Tư Hãn gần như được thần thánh hóa ở Mông Cổ | © Ludovic Hirlimann/Flickr/CC BY 2.0

Chuyến tông du Mông Cổ của Đức Phanxicô từ ngày 31 tháng 8 đến ngày 4 tháng 9 – 2023, sẽ là dịp để ngài nói chuyện với một dân tộc đang giữ các truyền thống tôn giáo đa dạng và rất lâu đời. Nói về Thiên Chúa trong bối cảnh này sẽ là một thách thức với ngài vì ngài xem việc đối thoại huynh đệ với các tôn giáo khác là một trong những điểm chính triều giáo hoàng của ngài.

Ở Mông Cổ, các tôn giáo đơn thần như hồi giáo và kitô giáo là thiểu số. Một nửa dân số theo đạo phật, nhưng đất nước còn bị tác động nhiều do nhiều năm sống dưới chế độ cộng sản vô thần – hơn 40% người dân nói họ không có tín ngưỡng, họ có một truyền thống pháp sư rất lâu đời, và tôn giáo bản địa tengri phát sinh nhiều tập quán đồng bộ.

Thành Cát Tư Hãn được ‘thần thánh hóa’

Trong xã hội có 3,3 triệu người dân này, tôn giáo là một vấn đề phức tạp và thường mang tính chính trị, hình ảnh Thành Cát Tư Hãn (1160-1227) giúp người dân đoàn kết – về mặt tinh thần hoặc lịch sử – với các nhánh khác nhau của các truyền thống tôn giáo của đất nước. Trong một bài tiểu luận xuất bản năm 2016, nhà nhân chủng học người Pháp Roberte Hamayon lưu ý, sau thời kỳ cộng sản, người dân Trung Á cảm thấy cần phải kết nối lại với quá khứ tôn giáo và tìm kiếm thần thánh của chính họ – để tạo thành một tôn giáo quốc gia. Ở Mông Cổ, nhân vật thần thoại Thành Cát Tư Hãn, người sáng lập đất nước được tôn vinh.

Từ những năm 2000, người dân bắt đầu dùng Lịch sử bí mật người Mông Cổ để kể về gia phả và lịch sử của nhà lãnh đạo vĩ đại, như một loại Kinh thánh. Nhưng việc gần như thần thánh hóa Thành Cát Tư Hãn đã có từ xa xưa và bắt nguồn từ hình ảnh truyền thống về nhà lãnh đạo Mông Cổ, người đã thu hút sức mạnh của mình qua mối liên hệ đặc biệt với “tenger”, “bầu trời” – trong đó ông biết cách đọc các điềm báo.

Tôn giáo tengri, một bầu trời không có Thượng đế

Liên kết cơ bản này và sa-man với trời là trọng tâm của đạo tengri, truyền thống tâm linh vĩ đại của Trung Á. Vào thế kỷ 12, nhà truyền giáo người flamăng Guillaume de Rubrouck đã lưu ý, thuật ngữ “khan” là danh hiệu phẩm giá, có nghĩa tương tự như thầy bói (…); từ đó các hoàng tử của họ lấy tên này, vì nhiệm vụ của họ là cai trị nhân dân bằng các điềm báo. Ông Roberte Hamayon khẳng định, trong hệ thống tôn giáo này, “trời” không phải là một con người và vì thế lại càng không phải là một vị thần.

Quan niệm này mang hình thức đồng bộ trong truyền thống phật giáo mật tông, với hình tượng Gesar, anh hùng của thiên anh hùng ca mang tên ông. Trong phật giáo Mông Cổ, anh hùng Gesar là hóa thân của thần chiến tranh Begtsé, một vị thần giận dữ có nhiệm vụ bảo vệ người tín hữu, nhưng không liên quan gì đến một đấng sáng tạo hay một vị thần toàn năng.

Vị vua thần thoại này được biết là đi cùng với ba mươi ba anh hùng, “bataar”. Thuật ngữ này có trong tên của thủ đô Ulaanbaatar, có nghĩa là “anh hùng đỏ”, biệt danh của nhà cách mạng cộng sản Mông Cổ Damdin Sükhbaatar.

Phật giáo, sức mạnh cấu trúc của Mông Cổ

Có mặt ở Mông Cổ từ thế kỷ thứ 8, phật giáo đã thực sự phát triển vào thế kỷ 13 với cháu trai của Thành Cát Tư Hãn là Hốt Tất Liệt, người sáng lập ra triều đại nhà Nguyên trị vì Trung Quốc trong một thế kỷ (1271-1368). Hốt Tất Liệt quyết định theo truyền thống phật giáo Tây Tạng và áp đặt tôn giáo này lên người dân. Tuy nhiên, truyền thống pháp sư lại chiếm ưu thế khi đế chế của ông sụp đổ.

Vào thế kỷ 16, với nhà lãnh đạo Altan Khanm(A Nhĩ Thản Hãn), phật giáo Tây tạng trở lại Mông Cổ, để củng cố quyền lực của mình, ông kêu gọi các tu sĩ phật giáo ủng hộ, lấy cảm hứng từ quá khứ huy hoàng của triều đại Thành Cát Tư Hãn. Tôn giáo ngày càng trở nên quan trọng, cao điểm vào đầu thế kỷ 20 với Bogd Khan, người vừa là nhà lãnh đạo chính trị của Mông Cổ vừa là “lạt ma” quan trọng nhất trong hệ thống tôn giáo phật giáo của đất nước.

Bầu trời giữ một vị trí đặc biệt trong đạo tengri, tôn giáo truyền thống của Mông Cổ | © kanglapass/Flickr/CC BY-NC-ND 2.0

Trở thành một quốc gia thực sự trong một quốc gia, mạng lưới tu viện hùng mạnh đã bị chế độ cộng sản lên nắm quyền năm 1924 phá bỏ một cách tàn nhẫn và chỉ được tái lập sau khi Bức tường Berlin sụp đổ. Từ cuối những năm 1990, phật giáo được chính quyền công nhận là quốc giáo và được một nửa người dân theo.

Phật giáo tây tạng thực hành ở Mông Cổ không tin vào sự tồn tại của một vị thần tối cao nhưng khuyến khích sự tôn kính các vị thần và các thần linh địa phương. Họ cũng đề cao đến các nhân cách siêu phàm như Đức Phật, một người đạt ngộ và vì thế được xem như một hình thức thần thánh – phật có nghĩa là người đã “ngộ”.

Thành Cát Tư Hãn, tổ phụ của các tôn giáo Trung Á

Trong lịch sử Mông Cổ, hậu duệ của Thành Cát Tư Hãn sẽ quan tâm đến truyền thống hồi giáo và kitô giáo mà đoàn người Mông Cổ gặp trên đường đi của họ. Do đó, chúng ta thấy sự hiện diện của người hồi giáo ở trung tâm của đế chế Mông Cổ từ thế kỷ 13, dưới sự trị vì của chắt của ông là Ghazan, người đã cải đạo và thành lập Ilkhanate, một đế chế hồi giáo đã mở rộng vào thế kỷ 14 đến Ba Tư và vùng Caucase. Berké, một người cháu trai khác được biết đến là người sáng lập Kim Trướng hãn quốc – trải dài từ Ukraine đến Mông Cổ cho đến thế kỷ 14 – cũng đã cải đạo. 2% dân số Mông Cổ hiện nay theo đạo hồi, và tin vào Allah, Thượng đế đã mặc khải cho nhà tiên tri Mohammed.

Với người tín hữu kitô, mối liên hệ này mong manh hơn: vào thế kỷ 13, Tuluy, một người con trai của Thành Cát Tư Hãn đã là người bảo vệ dị giáo Nestôriô – dị giáo kitô này lúc đó có mặt khắp vùng. Nếu ông chọn phật giáo tây tạng, nhưng con trai ông là Hốt Tất Liệt được những người thuộc dị giáo Nestôriô nuôi dạy, nhưng ông cấm người con không được rửa tội. Dị giáo Nestôriô cuối cùng đã biến mất, và kitô giáo trở lại trễ hơn với hai làn sóng truyền giáo, làn sóng đầu tiên từ thế kỷ 19 đến thời kỳ cộng sản, và làn sóng thứ hai từ đầu thế kỷ 21.

Cộng đồng công giáo nhỏ

Ngày nay, cộng đồng công giáo nhỏ kề vai sát cánh với chính thống giáo, có mặt để đồng hành cùng cộng đồng người Nga hải ngoại, và các nhà truyền giáo tin lành và giáo phái phúc âm. Những người thuộc giáo phái phúc âm là những người luôn đi tìm tín đồ mới, họ là nguồn gốc của căng thẳng với chính phủ và với các tôn giáo khác. Một cựu giáo sĩ ở Mông Cổ nói với hãng tin I.Media: “Là tín hữu kitô, họ để chúng tôi vào chung một rọ.”

Ông Roberte Hamayon lưu ý, để nói về Chúa, các tín hữu kitô thường dùng thuật ngữ “burhan” hoặc “quyền lực cao quý”, được dùng để chỉ Đức Phật, và đôi khi là “Iertưnciin Ezen, thầy của vũ trụ” -, thuật ngữ dùng để nói đến Thành Cát Tư Hãn nhưng bị người Mông Cổ cho là xúc phạm nên họ không dùng. Trong Từ điển kitô giáo-công giáo Anh-Mông Cổ xuất bản năm 2008, linh mục người Pháp Pierre Palussière đề xuất thuật ngữ tổng hợp “Tengerburhan” hợp nhất các khái niệm Tenger (bầu trời) và Burhan.)

Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch