Từng bước theo Ngài (2) | Thứ Hai, Thứ Ba, Thứ Tư Tuần Thánh

1632

Thứ Hai, Thứ Ba, Thứ Tư Tuần Thánh
Ngày 3, 4, 5 tháng 4 năm 30

Trong những ngày này, ban đêm Đức Giêsu nghỉ tại làng Bêtania. Đến sáng thì vào thành, giảng dạy trong sân Đền thờ. Các nhóm tôn giáo Do Thái biết Ngài đang ở Giêrusalem nên cũng tìm đến và chất vấn Ngài về một số vấn đề quan trọng.

Những diễn biến chính trong 3 ngày này:
– Dân chúng đến với Đức Giêsu để nghe Ngài giảng. Theo đường lối sư phạm từ trước tới nay, Đức Giêsu kể cho họ nghe những dụ ngôn. Nhưng vì đây là thời gian cuối cùng nên những dụ ngôn này đều kêu gọi tỉnh thức sẵn sàng.
– Các nhóm tôn giáo cũng đến với Đức Giêsu nhưng không phải để nghe giảng dạy mà để tranh luận.
– Giuđa xúc tiến việc nộp Đức Giêsu.

I. Những dụ ngôn cuối cùng

Dụ ngôn về hai đứa con (Mt 21,28-32)

Các dụ ngôn gồm: (1) Dụ ngôn về hai đứa con (Mt 21,28-32): Đứa con thứ hai miệng luôn thưa “vâng” với cha nhưng lại không làm chính là dân Do Thái; (2) Dụ ngôn những tá điền sát nhân (Mt 21,33-44); (3) Dụ ngôn tiệc cưới mà những kẻ được mời trước lại không đến dự (Mt 22,1-14).

Dụ ngôn những tá điền sát nhân (Mt 21,33-44)
Dụ ngôn tiệc cưới mà những kẻ được mời trước lại không đến

“Nghe những dụ ngôn ấy, các Thượng tế và người Pharisêu hiểu là Ngài nói về họ. Họ tìm cách bắt Ngài, nhưng lại sợ đám đông, vì đám đông cho Ngài là một ngôn sứ” (Mt 21,45-46).

II. Những cuộc tranh luận

Có nên nộp thuế cho Xêda không?

Các phe nhóm Do Thái lần lượt tranh luận với Đức Giêsu: (1) Khởi sự là phái Pharisêu hợp sức với nhóm Hêrôđê đặt vấn đề “Có nên nộp thuế cho Xêda không?” (Mt 22,15-23); (2) Tiếp đến là phái Sađóc với vấn đề kẻ chết sống lại (*Có một chuyện rất lố bịch trong sách Talmud (sách sưu tập các giáo huấn của giới Rabbi): Một người Do Thái kia có 12 anh em và những người này đều lần lượt chết cả. Theo luật “thế huynh” (lévirat), người này phải cưới những người vợ góa kia. Vậy người nầy giải quyết bằng cách sống với mỗi người vợ một tháng. Sau 3 năm, người này có tất cả 36 đứa con! Câu chuyện mà các người Sađóc đặt ra để cũng lố bịch tương tự, nhằm mỉa mai giáo lý sống lại); (3) Sau cùng là phái Pharisêu với câu hỏi “Điều răn nào là điều răn trọng nhất” (Mt 22,34-40).

Khốn cho các ngươi hỡi những người giả hình…

Qua những cuộc tranh luận ấy, Đức Giêsu thấy rõ lòng dạ của những người vốn tự nhận là lãnh đạo tinh thần của dân. Đức Giêsu không cầm được cơn giận nên trách mắng họ rất nặng lời: “Khốn cho các ngươi hỡi những người giả hình…” (Mt 23,1-36).

III. Giuđa âm mưu nộp Thầy

Những dụ ngôn của Đức Giêsu đã làm cho các Thượng Tế, kinh sư và biệt phái tức bực. Những cuộc tranh luận càng khiến họ giận dữ thêm. Và những lời trách mắng thẳng thừng của Đức Giêsu lại như đổ thêm dầu vào lửa. Tất cả các yếu tố ấy cộng lại khiến họ quyết định sẽ tiêu diệt Ngài. Tuy nhiên họ chưa dám ra tay vì sợ dân chúng khi ấy đang rất ủng hộ Đức Giêsu.

Đang lúc các Thượng Tế, kinh sư và biệt phái chưa biết làm sao để thực hiện ý đồ của mình thì có một người tự nguyện đến giúp họ: Giuđa Iscariốt. Tin Mừng Mt viết: “Bấy giờ, một người trong Nhóm 12 tên là Giuđa Iscariốt đi gặp các Thượng tế mà nói ‘Quý vị muốn cho tôi bao nhiêu? Tôi đây sẽ nộp ông ấy cho quý vị’. Họ quyết định cho hắn 30 đồng bạc. Từ lúc đó hắn cố tìm dịp thuận tiện để nộp Đức Giêsu” (Mt 26,14-16).

Về số tiền “30 đồng bạc”, không rõ Matthêu muốn nói tới đồng denier, đồng drachme hay đồng sicle. Nhưng điều quan trọng là giá trị số tiền đó và nhất là ý nghĩa của nó. (1) Về giá trị: Mt 27,7 cho biết là sau khi Giuđa ném lại số tiền ấy vào Đền thờ và ra đi thắt cổ, thì các Thượng Tế đã dùng nó để mua một thửa ruộng. Như vậy là giá trị cũng tương đối khá. Nhưng việc Giuđa đã ném trả lại cho thấy giá trị của nó không tương xứng với tội bán thầy mà Giuđa phải mang tiếng muôn đời trước lịch sử. (2) Về ý nghĩa: Mt 26,15b dùng động từ “quyết định” khi nói tới việc các Thượng Tế trao 30 đồng cho Giuđa. Ta có thể từ đó suy đoán là họ đã bàn bạc với nhau. Cuối cùng họ nhất trí với số lượng 30 đồng. Lý do là đây là số tiền luật quy định bồi thường sinh mạng cho một người nô lệ lỡ bị giết chết. Vậy các Thượng Tế muốn dùng số tiền này để hạ nhục Đức Giêsu, coi Ngài chỉ đáng giá bằng một tên nô lệ bị giết chết mà thôi.

Vấn đề đáng suy nghĩ hơn là nguyên do nào khiến Giuđa dám phạm một trọng tội là nộp Đức Giêsu để chỉ đổi lấy một số tiền không tương xứng với tội ác hắn phạm như thế:

– Phải chăng vì lòng ham hố tiền bạc? Quả là Giuđa có tham tiền: (1) Tin Mừng Gioan cho biết là “hắn thường lấy cho mình những gì người ta bỏ vào quỹ chung” (Ga 12,6); (2) Chính vì tham tiền cho nên khi thương lượng với các Thượng Tế, Giuđa đã nói: “Quý vị muốn cho tôi bao nhiêu? Tôi đây sẽ nộp ông ấy cho quý vị.”à Nhưng nếu tham tiền, Giuđa có thể thà tiếp tục ăn cắp của chung để sau nhiều lần gộp lại sẽ có một món tiền lớn hơn, chứ dại gì bán Thầy để mang tiếng muôn đời chỉ vì một số tiền ấy!

– Có lẽ vì Giuđa thất vọng do không đạt được điều mình mong muốn. Khi đi theo Đức Giêsu, Giuđa đã tưởng mình đi theo một nhân vật chính trị có tương lai. Khi cơ hội đến, tức là sau phép lạ hóa bánh ra nhiều, dân chúng muốn tôn Đức Giêsu lên làm vua nhưng Ngài lánh đi (Ga 6,15). Lúc đó rất nhiều người đã từng theo Đức Giêsu đâm ra thất vọng và bỏ Ngài (Ga 6,66). Mặc dù Giuđa chưa bỏ đi vì đang ở trong Nhóm 12 thân tín, nhưng khi đó Đức Giêsu cũng biết được lòng dạ hắn nên đã nói “Chẳng phải Thầy đã chọn anh em là Nhóm 12 sao? Thế mà một người trong anh em lại là quỷ” (Ga 6,70) và Thánh Gioan giải thích ngụ ý của Đức Giêsu “Ngài muốn nói về Giuđa” (Ga 6,70b). Sự thất vọng đã nẩy sinh ngay từ lúc đó và càng ngày càng chán chường hơn. Hôm nay là dịp để Giuđa loại bỏ Đức Giêsu.à Tuy nhiên giả thuyết này không giải thích được tại sao sau đó Giuđa hối hận và tự sát.

– Lý do thuyết phục nhất là tính kiêu ngạo muốn lèo lái người khác theo ý đồ của mình: Giuđa theo Đức Giêsu vì hy vọng Ngài sẽ khởi nghĩa lập nên sự nghiệp chính trị. Nhưng sau khi thấy Đức Giêsu nhiều lần bỏ qua những cơ hội, cuối cùng hắn muốn dồn Đức Giêsu vào chân tường: Nộp Ngài cho kẻ thù để rồi Ngài bó buộc phải kháng cự, và nhờ đó cuộc khởi nghĩa bắt đầu. Nhưng Đức Giêsu cũng chẳng kháng cự trong cái thế bị dồn vào chân tường ấy. Lúc đó Giuđa biết mình đã tính sai nước cờ, mất hết cả chì lẫn chài. Hắn hối hận (theo nghĩa “tức mình”) và tự tử.

Ơn gọi của Giuđa thất bại vì không phải Giuđa muốn đi theo Chúa, trái lại muốn bắt Chúa đi theo mình!

***

Ý NGHĨA TAM NHẬT THÁNH

Ba ngày Thứ Năm, Thứ Sáu và Thứ Bảy tuần thánh được gọi là Tam Nhật Thánh. Nguồn gốc và ý nghĩa thế nào?

I. Lịch sử Tam Nhật Thánh

1. Trung tâm của Tuần Thánh là 3 ngày Thứ Năm, Sáu, Bảy với các việc cử hành vừa nhiều hơn vừa long trọng hơn các ngày khác trong năm Phụng vụ.

2. Truyền thống này bắt đầu từ thế kỷ IV, thời Thánh Ambrôsiô (ở Milano nước Ý) và Thánh Augustinô (ở Hippone, Bắc Phi).
Lý do cử hành trong “ba ngày” là để làm đúng theo công thức “ba ngày” được nhiều câu Sách Thánh nói tới, như Hs 6,2 Ga 2,1 và Mt 12,40).
Thực ra thì không chính xác 3 ngày mà chỉ có 1 ngày rưỡi và 2 đêm từ chiều Thứ Sáu đến rạng sáng Chúa nhật:
– Chiều Thứ Sáu: Phụng vụ Lời Chúa và tôn kính Thánh Giá.
– Đêm Thứ Bảy: Phụng vụ Lời Chúa, nghi lễ ánh sáng và lễ nghi ban Phép rửa.
– Rạng sáng Chúa nhật Phục Sinh: Thánh lễ long trọng.

3. Dần dần về sau, Giáo Hội thêm vào:
– Đêm Thứ Năm Tuần Thánh: Cử hành Bữa Tiệc Ly trong đó Đức Giêsu rửa chân các môn đệ và lập Bí tích Thánh Thể.
– Ngày Thứ Năm: Thánh lễ do Giám mục chủ tế cùng với các Linh mục trong giáo phận đồng tế, để tưởng niệm việc Đức Giêsu lập Bí Tích Truyền chức thánh – đồng thời Giám mục làm phép các thứ dầu sẽ dùng trong các bí tích.

4. Điều đáng chúng ta lưu ý nhất là tất cả các nghi lễ được cử hành trong 3 ngày này không được coi là những nghi lễ riêng lẻ, độc lập, mà là thành phần của một cuộc tưởng niệm bao quát trong đó mỗi nghi lễ được coi như một mắc xích trong một dây chuyền duy nhất nhằm tưởng niệm một biến cố duy nhất gọi là biến cố Vượt Qua. Chính vì vậy mà Giáo Hội cũng gọi Tam Nhật Thánh là Tam Nhật Vượt Qua.

II. Ý nghĩa lễ Vượt Qua

1. Nguồn gốc Lễ Vượt Qua
Đây là một lễ của dân du mục hoặc bán du mục. Vào mùa xuân, họ tế lễ một con thú tơ để cầu xin cho đoàn vật của họ sinh sản đông đúc, đất đai của họ trổ sinh nhiều hoa trái. Máu con vật được phết lên cọc lều (sau này khi đã có nhà thì lấy máu phết lên ngạch cửa) để xua trừ tà ma. Thịt con vật được nướng trên lửa chứ không cần dùng dụng cụ nấu nướng gì cả; thịt đó ăn chung với bánh không men (thói quen này ngày nay vẫn còn nơi dân du mục Bédouins) và với rau đắng tức là loại rau không do người ta trồng mà mọc tự nhiên. Khi ăn thì mang thắt lưng, chân mang giày như sắp sửa đi xa, tay cầm gậy chăn chiên.

–> Nhận xét: Nơi dân du mục, lễ này còn nặng tính vụ lợi, mê tín và thụ động.

2. Lễ Vượt Qua Do Thái
Môsê đã mượn lễ này, thay đổi vài chi tiết, và gán ý nghĩa mới cho tất cả các chi tiết để làm nổi lên ý nghĩa chung là tưởng niệm việc Thiên Chúa giải phóng dân do thái khỏi ách nô lệ.

– Thời gian: Xưa là vào mùa xuân; Môsê định rõ là ngày 14 tháng Nisan.
– Thời điểm buổi tối: Ý nghĩa xưa là thời gian thuận tiện cho lễ hội, ý nghĩa mới là thời điểm thuận tiện để trốn khỏi Ai Cập.
– Bánh không men: Ý nghĩa xưa là trước mùa xuân thì hết men; ý nghĩa mới là vì vội quá không kịp trộn men.
– Rau đắng: Ý nghĩa xưa là vì đó là một loại rau có sẵn nhiều ở các cánh đồng; ý nghĩa mới là nhắc nhở sự cay đắng của kiếp nô lệ.

– Thắt lưng: Nghĩa xưa là để dễ nhảy múa trong lễ hội; nghĩa mới là gọn gàng để dễ xuất hành.

– Giết một con thú tơ: Nghĩa xưa là cầu cho các thú nuôi được sinh sản đông đúc; Môsê buộc phải là con chiên được tuyển lựa kỹ với ý nghĩa là một lễ tế.

Máu bôi lên thành cửa: Nghĩa xưa là để xua đuổi tà ma; Nghĩa mới: Để làm dấu cho thiên thần không vào nhà ấy.

–> Nhận xét: Lễ Vượt qua của dân Do Thái không còn vụ lợi mà nhằm tạ ơn, không còn mê tín mà hướng lên Thiên Chúa ; tuy nhiên vẫn còn thụ động.

3. Lễ Vượt Qua của Đức Giêsu
Đức Giêsu cũng ăn tiệc Vượt Qua, nhưng Ngài biến bữa tiệc đó thành cuộc Vượt Qua của Ngài.

– Thay đổi ngày: Không phải là Thứ Sáu áp lễ Vượt Qua, mà là Thứ Năm (một ngày trước đó).
Thay đổi món ăn: Xem các bài tường thuật bữa tiệc Vượt qua của Đức Giêsu (Mt 26,20-29; Ga 13,1-30), ta không thấy những món rất quan trọng là Con chiên và rau đắng, mà chỉ có bánh và rượu.

Thay đổi cung cách ăn: Đức Giêsu và các môn đệ không đứng, cầm gậy, nai nịt gọn gàng… Nhưng các ngài ngồi hoặc nằm (cho nên khi bắt đầu rửa chân, Đức Giêsu “đứng dậy” Ga 13,4; khi người môn đệ yêu dấu muốn hỏi Ngài về kẻ phản bội thì người này “nghiêng mình vào ngực Đức Giêsu” Ga 13,25).

Những thay đổi đó nhằm cho thấy Đức Giêsu chính là Con Chiên Vượt Qua; và chính Ngài thực hiện cuộc Vượt Qua (chứ không phải thiên thần).

Ý tưởng này được các sách Tin Mừng nói rõ hơn nữa qua một số chi tiết khác:
– Ngài chết vào đúng giờ người Do Thái giết con chiên Vượt Qua (Mt 27,46 “Giờ thứ chín” của ngày áp lễ Vượt qua (Ga 19,31), xương Ngài không bị đánh gãy (Ga 19,33).
– Máu của Ngài (chứ không phải máu của con chiên) sẽ đóng ấn Giao ước mới (Mt 26,28).
– Chính vì bữa tiệc Vượt Qua này là Tiệc Vượt Qua của Đức Giêsu nên Tin Mừng thứ tư viết: “Trước lễ Vượt Qua, Đức Giêsu biết Giờ của Ngài đã đến, giờ phải bỏ thế gian mà về với Chúa Cha” (Ga 13,1).

–> Nhận xét: Đức Giêsu hoàn toàn chủ động thực hiện cuộc Vượt Qua: Qua thế gian để với với Chúa Cha, qua đau khổ để đến vinh quang.

4. Lễ Vượt Qua của chúng ta
Khi cùng Đức Giêsu sống lại những biến cố trong Tam Nhật Vượt Qua xưa, chúng ta đừng nghĩ rằng Đức Giêsu sắp hay đang tiến dần đến cái chết và sẽ sống lại. Trái lại chúng ta phải hoàn toàn ý thức và tuyệt đối tin rằng Ngài đã trải qua các biến cố đó và đã sống lại.
Bởi vậy, tâm tình của chúng ta không phải là đau buồn, thông cảm (có tính tình cảm, bi thương) mà là tin tưởng và lạc quan (tâm tình tin, cậy, mến): Đức Giêsu đã vượt qua tất cả và đã chiến thắng vinh quang. Nếu chúng ta cùng chết với Ngài thì cũng sẽ cùng sống lại với Ngài.
Nói cách khác, chúng ta hãy nhìn Đức Giêsu như một người đã chiến thắng và cho chúng ta xem lại đoạn phim lúc Ngài đang chiến đấu gian khổ, để rút ra những bài học cho cuộc chiến đấu của chính chúng ta.

–> Như thế Lễ Vượt qua của chúng ta vừa chủ động vừa thụ động: Trong khi nhìn lại cuộc Vượt qua của Đức Giêsu, chúng ta cũng hãy nghĩ đến những tình huống khó khăn, những sự xấu và sự dữ nào của chúng ta mà chúng ta phải vượt qua. Rồi với sự trợ giúp của Đức Giêsu, chúng ta thực hiện cuộc Vượt qua của chính mình.

Đón xem phần 3: Thứ  Năm Tuần Thánh