Thánh Cyrilô Giêrusalem,
Giám mục Tiến sĩ (315?-386)
Các vấn đề trong giáo hội ngày nay là “chuyện nhỏ” so với sự phản ứng của tà thuyết Arian (tà thuyết chối bỏ thiên tính của Chúa Kitô. Cyrilô bị ngắt lời khi tranh luận, rồi bị Jerome kết tội theo tà thuyết Arian, cuối cùng ngài được nhiều người minh oan và được tôn vinh là tiến sĩ giáo hội năm 1822. Raised ở Giêrusalem, được giáo dục đàng hoàng, nhất là về Kinh thánh, ngài được ĐGM giáo phận Giêrusalem phong chức linh mục và giao nhiệm vụ dạy giáo lý cho những người sắp rửa tội trong mùa Chay và dạy cho các tân tòng trong mùa Phục sinh. Cuốn Catecheses (Giáo lý) của ngài vẫn còn giá trị làm mẫu cho nghi thức và thần học của giáo hội hồi giữa thế kỷ IV.
Có nhiều người phản đối việc ngài trở thành giám mục giáo phận Giêrusalem. Chắc chắn ngài được nhiều giám mục tấn phong giám mục. Vì một trong số đó có GM Acacius, một người theo thuyết Arian, có lẽ người ta muốn ngài “hợp tác”. Xung đột xảy ra giữa Cyrilô and Acacius, GM đối thủ ở gần tòa GM Caesarea. Cyrilô bị triệu đến công hội, bị kết tội không vâng lời và tội bán tài sản giáo hội để giúp người nghèo. Tuy nhiên, có thể có sự khác nhau về thần học. Ngài bị kết tội, bị trục xuất khỏi Giêrusalem, nhưng sau đó được minh oan, có cả những người “hai mang” (vừa theo Công giáo vừa theo Arian) cũng minh oan cho ngài. Một nửa trong giám mục đoàn bị đi đày (Patrixiô bị 2 lần). Cuối cùng, ngài trở về thấy Giêrusalem bị “te tua” vì tà thuyết, vì ly giáo, vì xung đột, và hoang tàn vì tội phạm. Ngay cả thánh Grêgôriô Nyssa khi đó được ai đến trợ giúp cũng cảm thấy thất vọng.
Hai ngài đi dự Công đồng đại kết II (Second Ecumenical Council of Constantinople), tại đây Tín điều Nicê (Nicene Creed) được công bố. Cyrilô chấp nhận từ consubstantial (đồng bản thể, nghĩa là thuộc về Chúa Cha và Đức Kitô). Một số người cho đó là động thái ăn năn (act of repentance), nhưng các GM tham dự Công đồng khen ngợi ngài là “nhà vô địch chính thống (champion of orthodoxy) chống lại thuyết Arian. Dù không thân thiện với những người bảo vệ chính thống chống lại Arian, ngài vẫn có thể được kể trong số những người mà thánh Athanasiô gọi là “những huynh đệ chúng tôi muốn nói tới, và chỉ khác nhau về từ ngữ”.
Thom. Aq. TRẦM THIÊN THU
(Chuyển ngữ từ BeliefNet.com, Saints.sqpn.com, AmericanCatholic.org, Catholic.org)
Mời nghe các bài đọc trong thánh lễ hôm nay:
(Martha đọc)
Nghe hoặc Download Bài đọc 1 MP3 Tại đây
Bài đọc: Đn 13,1-9.15-17.19-30.33-62
Tôi sẽ phải chết, nhưng thà tôi không làm gì cả.
Lời Chúa trong sách ngôn sứ Đanien.
Hồi đó, có một người ở tại Ba-by-lon, tên là Giô-gia-kim. Ông lấy vợ tên là Su-san-na. Bà là con gái ông Khen-ki-gia; bà rất xinh đẹp và kính sợ Chúa. Cha mẹ bà là người công chính, đã dạy dỗ con cái theo Luật Mô-sê. Ông Giô-gia-kim là người rất giàu, ông có khu vườn bên cạnh nhà. Người Do-thái thường đến nhà ông, vì ông có thế giá hơn mọi người. Năm ấy, người ta đặt hai kỳ mục chọn trong dân làm thẩm phán. Đấng Chí Tôn đã phán về họ rằng : « Từ Ba-by-lon, đã phát xuất sự gian tà do những kỳ mục, những thẩm phán có vẻ như cai trị dân. » Những kỳ mục này thường lui tới nhà ông Giô-gia-kim. Tất cả những ai có việc gì cần xét xử thì đến gặp họ. Giữa trưa, khi dân đã rút lui, bà Su-san-na vào đi dạo trong vườn của chồng. Hai kỳ mục thấy bà mỗi ngày vào đi dạo, thì sinh lòng ham muốn. Họ để tâm trí ra đồi bại, quay mắt đi để khỏi nhìn lên trời cao và chẳng nhớ đến những phán quyết công minh của Thiên Chúa… Họ đang nóng lòng chờ dịp thuận lợi, thì một hôm, bà Su-san-na đi vào vườn như các ngày trước, chỉ có hai tớ gái theo hầu. Vì trời nóng, bà muốn tắm trong vườn. Ở đó, chẳng có ai, ngoại trừ hai kỳ mục đang ẩn núp và rình xem. Bà bảo các tớ gái : « Đem cho ta dầu và thuốc thơm, rồi đóng cửa vườn lại để ta tắm. »… Các cô vừa ra khỏi đó, thì hai kỳ lão liền chồm dậy, nhào tới chỗ bà và nói : « Này cửa vườn đã đóng, chẳng ai thấy chúng ta đâu. Chúng tôi thèm muốn bà, bằng lòng trao thân cho chúng tôi đi! Nếu không, chúng tôi sẽ làm chứng tố cáo rằng có một thanh niên ở với bà, và vì thế bà đã cho các tớ gái đi khỏi đây. » Bà Su-san-na thở dài não ruột và nói : « Tôi bị khốn tứ bề! Quả thật, nếu làm thế, tôi sẽ phải chết; còn nếu không làm, tôi cũng không thoát khỏi tay các ông. Nhưng thà không làm gì cả mà sa vào tay các ông, còn hơn là phạm tội trước mặt Chúa! » Bà Su-san-na liền kêu lớn tiếng và hai kỳ lão cũng la lên để hại bà. Một ông chạy ra mở cửa vườn. Khi nghe tiếng kêu trong vườn các gia nhân đổ xô vào cửa bên hông, để xem sự gì đã xảy ra cho bà. Và sau khi các kỳ lão kể lại chuyện đó, các tôi tớ rất lấy làm hổ thẹn, vì chưa bao giờ nghe nói như thế về bà Su-san-na. Hôm sau, dân chúng tụ họp ở nhà ông Giô-gia-kim chồng bà. Hai kỳ lão kia cũng đến đó, lòng đầy gian ý hại bà, để làm cho bà phải chết. Họ nói trước mặt dân chúng : « Hãy sai người đi tìm Su-san-na, con gái ông Khen-ki-gia, vợ ông Giô-gia-kim. » Rồi người ta cho người đi tìm bà. Bà cũng đến đó với cha mẹ, con cái và tất cả thân nhân… Mọi người thân cũng như tất cả những ai thấy bà, đều khóc. Từ giữa đám dân, hai kỳ lão đó đứng dậy đặt tay lên đầu bà… Còn bà thì vừa khóc vừa ngước mắt lên trời, vì bà đầy lòng trông cậy vào Chúa. Các kỳ lão nói : « Chúng tôi đang dạo chơi một mình trong vườn, thì mụ này đã vào với hai tớ gái, đóng cửa vườn lại, rồi cho các tớ gái đi ra. Một gã thanh niên núp sẵn ở đó, đến bên mụ và nằm với mụ. Lúc ấy, chúng tôi đang ở một góc vườn, thấy chuyện đồi bại, liền chạy tới. Chúng tôi thấy chúng ăn nằm với nhau, nhưng không tóm được gã thanh niên, vì hắn khoẻ hơn chúng tôi, và đã mở cửa chạy mất. Còn mụ này, chúng tôi bắt được và hỏi mụ ta xem gã thanh niên kia là ai. Nhưng mụ không chịu nói cho chúng tôi. Chúng tôi xin làm chứng về những điều ấy. » Cộng đồng tin họ, vì họ là những kỳ mục trong dân và là những thẩm phán. Rồi người ta kết án tử hình bà Su-san-na. Nhưng bà Su-san-na kêu lớn tiếng rằng : « Lạy Thiên Chúa hằng hữu, Đấng am tường những điều bí ẩn và thấy hết mọi sự trước khi chúng xảy ra, Ngài biết là họ đã làm chứng gian hại con. Này con phải chết, tuy chẳng làm điều gì trong những điều họ đã vu cho con. » Chúa đã nghe tiếng bà kêu. Trong lúc bà bị điệu đi hành hình, Thiên Chúa đã đánh động tâm trí thánh thiện của một thiếu niên tên là Đa-ni-en. Thiếu niên đó kêu lớn tiếng rằng : « Tôi vô can trong vụ đổ máu người phụ nữ này! » Toàn dân đều quay về phía cậu thiếu niên và hỏi : « Lời cậu vừa nói có nghĩa gì? » Cậu đứng giữa họ và nói : « Các người ngu xuẩn đến thế sao, hỡi con cái Ít-ra-en? Các người đã lên án một người con gái Ít-ra-en mà không xét hỏi và cũng không biết rõ sự việc ra sao! Hãy trở lại nơi xét xử, vì những người kia đã làm chứng gian để hại người phụ nữ này.” Toàn dân vội vàng trở lại đó, và các kỳ mục nói với Đa-ni-en : « Đến đây, hãy ngồi giữa chúng tôi, và cho chúng tôi biết ý kiến, vì Thiên Chúa đã cho cậu được khôn ngoan như bậc lão thành. » Đa-ni-en nói : « Hãy tách riêng họ ra, rồi tôi sẽ xét hỏi. » Sau khi họ đã bị tách ra rồi, Đa-ni-en gọi một trong hai kỳ mục lại và nói : « Hỡi con người già đời trong đường gian ác, tội lỗi xưa ông đã phạm, nay lại tái diễn : ông đã xử bất công, kết án người vô can, tha bổng kẻ đắc tội, bất kể lời Chúa dạy : ‘Ngươi chớ giết người vô tội và người công chính’. Vậy bây giờ, nếu quả thật ông đã thấy bà kia, thì hãy nói ông đã thấy họ thông gian với nhau dưới cây nào? » Người ấy đáp : « Dưới cây trắc. » Đa-ni-en nói : « Ông đã nói dối trắng trợn khiến ông phải mất mạng, vì thiên sứ của Thiên Chúa đã nhận được án lệnh của Người là chặt ông làm đôi. » Sau khi cho người này ra, Đa-ni-en truyền dẫn người kia vào, rồi nói : « Hỡi nòi giống Ca-na-an, chứ không phải nòi giống Giu-đa, sắc đẹp đã mê hoặc ông, và tình dục đã làm cho ông ra hư hỏng. Các ông đã hành động như thế với các con gái Ít-ra-en. Vì sợ, họ đã thông gian với các ông. Nhưng người con gái Giu-đa này đã không chịu nổi sự gian tà của các ông. Vậy bây giờ, hãy nói cho tôi biết ông đã bắt quả tang họ thông gian với nhau dưới cây nào? » Người ấy đáp : « Dưới cây dẻ. » Đa-ni-en mới bảo : « Cả ông nữa, ông cũng nói dối trắng trợn khiến ông phải mất mạng, vì thiên sứ của Thiên Chúa, tay cầm gươm, đang chờ để xẻ ông làm đôi nhằm tiêu diệt các ông. » Bấy giờ toàn thể cộng đồng lớn tiếng reo hò và chúc tụng Thiên Chúa, Đấng cứu những kẻ trông cậy vào Người. Rồi người ta quay lại chống hai kỳ lão, vì Đa-ni-en đã dựa vào lời chính miệng các ông nói mà thuyết phục họ là các ông đã làm chứng gian. Theo luật Mô-sê, người ta giáng cho các ông hình phạt mà các ông định bắt người khác phải chịu, đó là giết các ông. Ngày ấy, máu người vô tội khỏi bị đổ oan. Đó là lời Chúa.
Nghe hoặc Download Bài Tin Mừng MP3 Tại đây
Tin Mừng: Ga 8,1-11
Ai trong các ông sạch tội, thì cứ việc lấy đá mà ném trước đi.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo thánh Gioan.
Khi ấy, Đức Giê-su đến núi Ô-liu. Vừa tảng sáng, Người trở lại Đền Thờ. Toàn dân đến với Người. Người ngồi xuống giảng dạy họ. Lúc đó, các kinh sư và người Pha-ri-sêu dẫn đến trước mặt Đức Giê-su một phụ nữ bị bắt gặp đang ngoại tình. Họ để chị ta đứng ở giữa, rồi nói với Người: “Thưa Thầy, người đàn bà này bị bắt quả tang đang ngoại tình. Trong sách Luật, ông Mô-sê truyền cho chúng tôi phải ném đá hạng đàn bà đó. Còn Thầy, Thầy nghĩ sao?” Họ nói thế nhằm thử Người, để có bằng cớ tố cáo Người. Nhưng Đức Giê-su cúi xuống lấy ngón tay viết trên đất. Vì họ cứ hỏi mãi, nên Người ngẩng lên và bảo họ: “Ai trong các ông sạch tội, thì cứ việc lấy đá mà ném trước đi.” Rồi Người lại cúi xuống viết trên đất. Nghe vậy, họ bỏ đi hết, kẻ trước người sau, bắt đầu từ những người lớn tuổi. Chỉ còn lại một mình Đức Giê-su, và người phụ nữ thì đứng ở giữa. Người ngẩng lên và nói: “Này chị, họ đâu cả rồi? Không ai lên án chị sao?” Người đàn bà đáp: “Thưa ông, không có ai cả.” Đức Giê-su nói: “Tôi cũng vậy, tôi không lên án chị đâu! Thôi chị cứ về đi, và từ nay đừng phạm tội nữa!” Đó là lời Chúa.
Eux, après avoir entendu cela, s’en allaient un par un, en commençant par les plus âgés. Jésus resta seul avec la femme toujours là au milieu. Il se redressa et lui demanda: «Femme, où sont-ils donc? Personne ne t’a condamnée?» Elle répondit: «Personne, Seigneur.» Et Jésus lui dit: «Moi non plus, je ne te condamne pas. Va, et désormais ne pèche plus.» (Jn 8,1-11)