THÁNH ĐIÔNYSIÔ GIÁM MỤC
VÀ CÁC BẠN TỬ ĐẠO
“Thánh Điônysiô, Giám mục thành Paris, đã chịu nhiều đau khổ vì danh Chúa Kitô và kết thúc cuộc đời dưới lưỡi gươm”.
Câu nói trên của thánh Grêgôriô thành Tours là tất cả những gì chúng ta biết được về thánh Điônysiô. Người ta kể lại truyền thuyết thật hấp dẫn về ngài như sau:
Vào năm 251, Đức Giáo Hoàng Fabianô đã sai 7 Giám mục đi truyền giáo tại xứ Gallia (Pháp). Các vị tông đồ này đã vượt qua mọi gian nguy và thiết lập nên các giáo đoàn Arles, Toulouse, Narbonne, Clermont, Limoges, Tours và Paris. Trước hết các ngài dừng lại ở Arles, rồi phân tán đi các tỉnh xứ Gallia. Paris là tỉnh xa nhất. Nhiệt tâm với đức tin, Điônysiô đã muốn tới đó.
Điônysiô đã thực hiện được nhiều cuộc trở lại rất ngoạn mục. Chỉ kêu cầu đến Danh Chúa, ngài đã làm lật nhào pho tượng thần Hỏa (Mars) khổng lồ. Chứng kiến cảnh tượng này, nhiều người đã phục dưới chân ngài xin theo đạo. Cùng với linh mục Eleutheriô và phó tế Rusticô, Điônysiô tiến xa về hướng bắc và dừng lại tại Paris. Ngài thiết lập giáo đoàn Paris và làm Giám mục tiên khởi của giáo đoàn này. Ngài luận bác sự điên dại của các ngẫu thần và rao giảng một Thiên Chúa duy nhất và Chúa Giêsu là Đấng Cứu Chuộc.
Phần đông thính giả tin theo ánh sáng Kitô giáo. Một trong số những người trở lại là lãnh chúa miền Montmorency. Tên ông là Lisiniô, ông đã cho thánh Điônysiô trú ngụ và biến tư thất làm nơi hội họp của các tín hữu. Dân chúng đổ xô đến nghe giảng, từ bỏ tà thần và lãnh nhận bí tích rửa tội. Thánh Điônysiô phong chức cho nhiều thừa tác viên mới. Dùng của cải dân Gallia dâng hiến, ngài dựng nên bốn nhà nguyện: một dâng hiến Chúa Ba Ngôi (nơi này sau thành thánh đường kính thánh Bênêđitô. Năm 1685, người ta đọc được ở đó dòng chữ này: “Trong nguyện đường này thánh Điônysiô đã khởi sự kêu cầu Chúa Ba Ngôi”; một nguyện đường dâng kính hai thánh tông đồ Phêrô và Phaolô (thánh Giênôvêpha thích đến cầu nguyện và được mai táng tại đây); nguyện đường thứ ba dâng kính thánh Têphanô và nguyện đường thứ tư dâng kính Đức Maria (nay là đền thờ Notredame des Champs).
Thánh Điônysiô vui mừng vì thành quả gặt hái được. Nhưng các người ngoại giáo, nhất là các tư tế dân ngoại thì rất bực tức. Họ than phiền với quan chức của vương quốc. Khi Hoàng đế Maximilianô mang quân qua xứ Gallia, lệnh bách hại Kitô giáo được ban hành nghiêm nhặt. Vị tông đồ cùng với hai bạn bị điệu ra toà. Ngài trả lời rằng: “Chúng tôi là tôi tớ Chúa Giêsu Kitô”.
Thánh Điônysiô cùng hai bạn bị tống ngục (nơi sẽ trở thành thánh đường thánh Điônysiô thành Chartres). Bị đánh đòn, bị hành hạ đến chảy máu, thánh nhân không hề than trách kêu la. Thay tiếng rên siết, ngài nói lên niềm tin và lời ca tụng. Bọn lý hình giương búa, múa roi trước mặt ngài, nhưng cụ già 110 tuổi, đầu bạc, vẫn đầy tin tưởng và êm dịu trả lời: “Chớ gì tôi phải chịu tất cả mọi cực hình này cùng một lúc để tôi sớm được hạnh phúc với Chúa Kitô”.
Ngài bị ném cho thú dữ xâu xé. Nhưng những con thú dữ chỉ liếm chân ngài. Bị treo lên thập giá, nhưng từ trên cao, ngài giảng về cuộc khổ nạn của Chúa khiến cho nhiều người trở lại. Vừa sợ vừa giận dữ, quan tòa ra lệnh xử trảm con người đầy dũng cảm này. Nơi hành hình là một ngọn đồi dâng kính Thủy thần (Mercure), nhưng sau này được gọi là núi các thánh tử đạo (Montmartre). Xác các thánh tử đạo không được chôn cất, nhưng phải để làm mồi cho súc vật. Nhưng có truyền thuyết kể rằng: Thánh Điônysiô sau khi bị chặt đầu, đã chỗi dậy cầm lấy đầu mình, đi xa khoảng hai dặm về hướng đông. Một sử gia nói rằng: Ngài dừng lại ở nơi ngài muốn được chôn cất và là tu viện của ngài.
Có một phụ nữ tên là Catulla đã chôn xác ngài ở một ngôi làng (làng này nay mang tên thánh Điônysiô). Bà dựng một nguyện đường bằng gỗ, nhưng rồi thánh Giênôvêpha đã xây lại bằng đá. Vua Dagobert sau này xây cất một thánh đường và một tu viện ở đó.
Thánh GIOAN LEONARĐÔ
Linh Mục (1541 – 1609)
Thánh Gioan Leonarđô sinh năm 1541 tại Luca miền Tuscia. Từ nhỏ thánh nhân đã theo học ngành thuốc, nhưng rồi bỏ nghề, Ngài muốn làm linh mục. Năm 25 tuổi, Ngài mới bắt đầu học tiếng Latinh, triết học và thần học. Năm 1571, Ngài được thụ phong linh mục.
Hồi đó tại Luca, tinh thần đạo đức của dân chúng lai còn bị hoang mang vì lạc thuyết mà Bernadinô thành Sienna gieo vãi. Là linh mục trẻ còn đấy nhiệt huyết, cha Gioan đã tìn cách chấn hưng bằng việc chăm lo giảng dạy và ngồi tòa. Hơn nữa, cha còn lập “hội giáo lý” qui tụ những người có thiện chí lo việc dạy giáo lý cho các trẻ em.
Tuy nhiên, là giáo dân, các hội viên của hộ giáo lý còn bị nhiều giới hạn và không thề làm được hết mọi việc. Năm 1574, thánh Gioan Leonarđô thành lập một hội dòng, đặt trụ sở tại nhà thờ Đức Mẹ Mân Côi. Đức Giáo Hoàng Clêmentê VIII đã châu phê luật dòng. Chính Đức Giáo Hoàng Phaolô V đặt tên cho hội dòng là “các giáo sĩ Mẹ Thiên Chúa”. Năm 1621, Đức Giáo Hoàng Grêgoriô XV đặt tu hội ngang hàng với các dòng tu kỳ cựu khác.
Nhiệt tình của thánh Gioan Leonarđô và của dòng do Ngài sáng lập, đã mang lại nhiều thành quả tốt đẹp. Nhưng cũng vì thành công này, mà Ngài phải chịu rất nhiều thử thách. Cuối cùng, Ngài đành phải chịu rời Luca để về Rôma, tại đây Ngài được Đức Giáo Hoàng Grêgoriô XIII tiếp đón ân cần. Ngài cũng có dịp làm quen với thánh Philpphê Nêri. Là một người hiền hoà tận tụy, thánh Gioan Leonarđô được nhiều người tín nhiệm, Ngài còn giải quyết được nhiều cuộc tranh chấp khó khăn.
Tại Rôma, thánh Gioan Leonarđô vẫn nuôi mộng truyền giáo. Cùng với Đức Hồng Y Baotixita Vivès, năm 1603, Ngài góp phần đào tạo nhiêu giáo sĩ các xứ truyền giáo. Năm 1627, Đức Giáo Hoàng Urbanô VIII chính thức thiết lập ngôi trường mà thánh Gioan Leonađô đặt nền móng thành “trường truyền giáo”, quy tụ các chủng sinh từ các nước xa xăm.
Ngày 09 tháng 10 năm 1609, Gioan Leonarđô từ trần, trong khi nhiệt thành chăm sóc các bệnh nhân mắc bệnh dịch. Năm 1706, Giáo hội mới lập hồ sơ tuyên thánh cho Ngài. Năm 1861 Ngài được nâng lên hàng Á thánh và năm 1938 được phong Hiển thánh.
—
Mời nghe các bài đọc trong thánh lễ hôm nay:
(Martha đọc)
Nghe hoặc Download Bài đọc MP3 Tại đây
Bài đọc: Gn 1,1-2,1.11
Ông Giôna đứng dậy để tránh nhan Đức Chúa.
Khởi đầu sách ngôn sứ Giôna.
Có lời Đức Chúa phán với ông Giô-na, con ông A-mít-tai, rằng: “Hãy đứng dậy, đi đến Ni-ni-vê, thành phố lớn, và hô cho dân thành biết rằng sự gian ác của chúng đã lên thấu tới Ta.” Ông Giô-na đứng dậy nhưng là để trốn đi Tác-sít, tránh nhan Đức Chúa. Ông xuống Gia-phô và tìm được một chiếc tàu sắp đi Tác-sít. Ông trả tiền, xuống tàu để cùng đi Tác-sít với họ, tránh nhan Đức Chúa. Nhưng Đức Chúa tung ra một cơn gió to trên biển và liền có một trận bão lớn ngoài khơi, khiến tàu tưởng chừng như sắp vỡ tan. Thủy thủ sợ hãi; họ kêu cứu, mỗi người kêu lên thần của mình và ném hàng hoá trên tàu xuống biển cho nhẹ bớt. Còn ông Giô-na thì đã xuống hầm tàu, nằm đó và ngủ say. Viên thuyền trưởng lại gần và nói với ông: “Sao lại ngủ thế này? Dậy! Kêu cầu thần của ông đi! May ra vị thần ấy sẽ nghĩ đến chúng ta và chúng ta khỏi mất mạng.” Rồi họ bảo nhau: “Nào, chúng ta hãy bắt thăm cho biết tại ai mà chúng ta gặp tai hoạ này.” Họ gieo quẻ và quẻ rơi trúng ông Giô-na. Họ bảo ông: “Vì ông là người đem tại hoạ này đến cho chúng ta, thì xin ông cho chúng tôi biết: Ông làm nghề gì? Ông từ đâu đến, quê ở nước nào, và thuộc dân nào?” Ông nói với họ: “Tôi là người Híp-ri, Đấng tôi kính sợ là Đức Chúa, Thiên Chúa các tầng trời, Đấng đã làm ra biển khơi và đất liền.” Những người ấy sợ, sợ lắm; họ nói với ông: “Ông đã làm gì thế?” Thật vậy, do ông kể lại mà họ được biết là ông đang trốn đi để tránh nhan Đức Chúa. Họ hỏi ông: “Chúng tôi phải xử với ông thế nào để cho biển lặng đi, không còn đe doạ chúng tôi nữa?” Quả thật, biển càng lúc càng động mạnh. Ông bảo họ: “Hãy đem tôi ném xuống biển thì biển sẽ lặng đi, không còn đe doạ các ông nữa, vì tôi biết là tại tôi mà các ông gặp cơn bão lớn này.” Những người ấy cố chèo vào đất liền, nhưng không thể được vì biển càng lúc càng dữ dội, khiến họ kinh hồn bạt vía. Họ kêu cầu Đức Chúa và thưa: “Ôi, lạy Đức Chúa, ước gì chúng con không phải chết vì mạng sống người này, và xin đừng đổ máu vô tội trên đầu chúng con; vì lạy Đức Chúa, chính Ngài đã hành động tùy theo sở thích.” Sau đó họ đem ông Giô-na ném xuống biển. Biển dừng cơn giận dữ. Những người ấy sợ Đức Chúa, sợ lắm; họ dâng hy lễ lên Đức Chúa cùng với lời khấn hứa. Bấy giờ, Đức Chúa khiến một con cá lớn nuốt ông Gio-na. Ông ở trong bụng cá ba ngày ba đêm. Rồi Đức Chúa bảo con cá, nó liền mửa ông Giô-na ra trên đất liền. Đó là lời Chúa.
Nghe hoặc Download Bài Tin Mừng MP3 Tại đây
Tin Mừng: Lc 10,25-37
Ai là người thân cận của tôi?
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo thánh Luca.
Một hôm, có người thông luật kia muốn thử Đức Giê-su mới đứng lên hỏi người rằng: “Thưa Thầy, tôi phải làm gì để được sự sống đời đời làm gia nghiệp?” Người đáp: “Trong Luật đã viết gì? Ông đọc thế nào?” Ông ấy thưa: “Ngươi hãy yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn, hết sức lực, và hết trí khôn ngươi, và người thân cận như chính mình”. Đức Giê-su bảo ông ta: “Ông trả lời đúng lắm. Cứ làm như vậy là sẽ được sống”. Nhưng ông ấy muốn chứng tỏ là mình có lý, nên mới thưa cùng Đức Giê-su rằng: “Nhưng ai là người thân cận của tôi?” Đức Giê-su đáp: “Một người kia từ Giê-ru-sa-lem xuống Giê-ri-khô, dọc đường bị rơi vào tay kẻ cướp. Chúng lột sạch người ấy, đánh nhừ tử, rồi bỏ đi, để mặc người ấy nửa sống nửa chết. Tình cờ, có thầy tư tế cũng đi xuống trên con đường ấy. Trông thấy người này, ông tránh qua bên kia mà đi. Rồi cũng thế, một thầy Lê-vi đi tới chỗ ấy, cũng thấy, cũng tránh qua bên kia mà đi. Nhưng một người Sa-ma-ri kia đi đường, tới ngang chỗ người ấy, cũng thấy, và chạnh lòng thương. Ông ta lại gần, lấy dầu lấy rượu đổ lên vết thương cho người ấy và băng bó lại, rồi đặt người ấy trên lưng lừa của mình, đưa về quán trọ mà săn sóc. Hôm sau, ông lấy ra hai quan tiền, trao cho chủ quán và nói: “Nhờ bác săn sóc cho người này, có tốn kém thêm bao nhiêu, thì khi trở về, chính tôi sẽ hoàn lại bác”. Vậy theo ông nghĩ, trong ba người đó, ai đã tỏ ra là người thân cận với người đã bị rơi vào tay kẻ cướp?” Người thông luật trả lời: “Chính là kẻ đã thực thi lòng thương xót đối với người ấy”. Đức Giê-su bảo ông ta: “Ông hãy đi, và cũng hãy làm như vậy”. Đó là lời Chúa.
Lequel des trois, à ton avis, a été le prochain de l’homme tombé aux mains des bandits?» Le docteur de la Loi répondit: «Celui qui a fait preuve de pitié envers lui.» (Lc 10,25-37)