Catarina (tiếng Hy Lạp: ἡ Ἁγία Αἰκατερίνη ἡ Μεγαλομάρτυς, tiếng Anh: Catherine) là một thánh nữ thuộc Giáo hội Công giáo sống vào thế kỷ thứ IV, thời Giáo hội sơ khai. Bà được tôn làm thánh bổn mạng của các triết gia Công giáo.
Catarina là con gái của một gia đình giàu có ở thành Alexandria, của Ai Cập. Thời còn trẻ, bà là một cô gái có nhan sắc và rất hiếu học đặc biệt là say mê nghiên cứu về triết học và tôn giáo. Khi bà đọc các sách viết về Kitô giáo và dần dần bà đã trở thành Kitô hữu.
Khi Catarina được 18 tuổi thì cũng là lúc hoàng đế La Mã Maximinus Daia bắt đầu thực hiện các hoạt động đàn áp các tín đồ Kitô hữu. Bà đã đứng ra chỉ trích ông vua này, dùng lý lẽ để biện bạch và chống lại những quan điểm ngang ngược, vô lý của nhà vua. Sau đó ông này công nhận rằng bà có lý.
Vị hoàng đế này đã nảy sinh tình cảm với bà và đòi cưới bà, thậm chí còn ban tặng cho bà chiếc vương miện hoàng hậu. Nhưng bà một mực từ chối vì đã giành cả cuộc đời để phụng sự cho đức tin của Chúa. Hết sức tức giận, Hoàng đế đã tống bà vào ngục. Dù vậy, ở trong ngục, bà vẫn thuyết phục được nhiều người cai ngục tin theo giáo lý Thiên Chúa. Maximinus Daia biết chuyện đã hành hình tất cả, riêng bà thì bị đặt trên một bánh xe đầy đinh nhọn để chịu hành hình.
(https://vi.wikipedia.org/wiki/Catarina_Alexandria)
Mời nghe các bài đọc trong thánh lễ hôm nay:
(Martha đọc)
Nghe hoặc Download Bài đọc MP3 Tại đây
Bài đọc: 1 Mcb 6,1-13
Chính vì những hành vi tàn bạo tôi đã làm ở Giêrusalem mà tôi phải chịu buồn phiền vô hạn.
Lời Chúa trong sách Macabê quyển thứ nhất.
Hồi đó, vua An-ti-ô-khô thì rảo khắp các miền thượng du. Vua nghe tin ở Ba-tư có thành Ê-ly-mai, một thành nổi tiếng vì nhiều của cải vàng bạc. Đền thờ trong thành cũng có nhiều báu vật, có cả những mảnh giáp trụ bằng vàng, có áo giáp và vũ khí mà con vua Phi-líp-phê là A-lê-xan-đê đã để lại ; ông này là vua miền Ma-kê-đô-ni-a và là người đầu tiên cai trị nước Hy-lạp. Vậy vua An-ti-ô-khô đã tới đó, tìm cách đánh chiếm và cướp phá thành, nhưng không thành công, vì dân trong thành đã hay tin trước. Họ đứng lên giao chiến chống lại vua khiến vua phải bỏ chạy về Ba-by-lon, lòng buồn não ruột. Bấy giờ vua đang ở Ba-tư. Có người đến báo cho vua biết là các đoàn quân sang đất Giu-đa đã bị thảm bại: Tướng Ly-xi-a chỉ huy đoàn quân tinh nhuệ nhất đã bị người Do-thái đẩy lui. Những người này càng thêm mạnh nhờ vũ khí, quân nhu và và nhiều chiến lợi phẩm thu được của những đoàn quân đã bị họ đánh tan tành. Họ đã triệt hạ Đồ ghê tởm do vua xây ở trên bàn thờ dâng lễ toàn thiêu tại Giê-ru-sa-lem, rồi xây tường luỹ cao chung quanh Thánh Điện giống như ngày xưa. Cả thành Bết Xua của vua, họ cũng xây như vậy. Nghe tin ấy, vua rất đỗi kinh hoàng. Vua lâm bệnh liệt giường vì phiền não, lại cũng vì sự việc không diễn ra như lòng mong ước. Vua nằm liệt như thế đã lâu, nỗi buồn cứ ngày đêm ray rứt. Tưởng như ngày chết đã gần kề, vua cho vời bạn hữu đến và nói : “Tôi không thể chợp mắt, vì nỗi âu lo canh cánh bên lòng. Tôi tự nhủ: Tại sao giờ đây tôi phải điêu đứng khổ sở như thế này? Trước kia, khi đang cầm quyền, tôi hạnh phúc và được yêu mến biết bao! Nhưng bây giờ, nhớ lại thời ở Giê-ru-sa-lem, tôi đã lấy mọi vật dụng bằng bạc bằng vàng, đã sai người đi tiêu diệt dân cư ở miền Giu-đa mà không có lý do chính đáng. Hồi tưởng lại những hành vi tàn bạo đó, tôi biết chắc rằng chính vì thế mà tôi gặp phải bao nhiêu tai biến, và giờ đây sắp phải chết nơi đất khách quê người vì buồn phiền vô hạn. Đó là lời Chúa.
Nghe hoặc Download Bài Tin Mừng MP3 Tại đây
Tin Mừng: Lc 20,27-40
Đức Chúa không phải là Thiên Chúa của kẻ chết, nhưng là Thiên Chúa của kẻ sống.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo thánh Luca.
Khi ấy, có mấy người thuộc nhóm Xa-đốc đến gặp Đức Giê-su. Nhóm này chủ trương không có sự sống lại. Mấy người ấy hỏi Đức Giê-su: “Thưa Thầy, ông Mô-sê có viết cho chúng ta điều luật này: Nếu anh hay em của người nào chết đi, đã có vợ mà không có con, thì người ấy phải lấy nàng, để sinh con nối dòng cho anh hay em mình. Vậy nhà kia có bảy anh em trai. Người anh cả lấy vợ, nhưng chưa có con thì đã chết. Người thứ hai, rồi người thứ ba đã lấy người vợ goá ấy. Cứ như vậy, bảy anh em đều chết đi mà không để lại đứa con nào. Cuối cùng, người đàn bà ấy cũng chết. Vậy trong ngày sống lại, người đàn bà ấy sẽ là vợ ai, vì cả bảy đều đã lấy nàng làm vợ?” Đức Giê-su đáp: “Con cái đời này cưới vợ lấy chồng, chứ những ai được xét là đáng hưởng phúc đời sau và sống lại từ cõi chết, thì không cưới vợ cũng chẳng lấy chồng. Quả thật, họ không thể chết nữa, vì được ngang hàng với các thiên thần. Họ là con cái Thiên Chúa, vì là con cái sự sống lại. Còn về vấn đề kẻ chết trỗi dậy, thì chính ông Mô-sê cũng đã cho thấy trong đoạn văn nói về bụi gai, khi ông gọi Đức Chúa là Thiên Chúa của tổ phụ Áp-ra-ham, Thiên Chúa của tổ phụ I-xa-ác, và Thiên Chúa của tổ phụ Gia-cóp. Mà Người không phải là Thiên Chúa của kẻ chết, nhưng là Thiên Chúa của kẻ sống, vì đối với Người, tất cả đều đang sống.” Bấy giờ có mấy người thuộc nhóm kinh sư lên tiếng nói: “Thưa Thầy, Thầy nói hay lắm.” Thế là, họ không dám chất vấn Người điều gì nữa. Đó là lời Chúa.
Mais ceux qui ont été jugés dignes d’avoir part au monde à venir et à la résurrection d’entre les morts ne prennent ni femme ni mari, car ils ne peuvent plus mourir: Ils sont semblables aux anges, ils sont enfants de Dieu et enfants de la résurrection. (Lc 20,27-40)