Lời Chúa trong Thánh LễLời Chúa

Bánh Mì Sáng | Thứ Hai 06.10 | Thánh Brunô, linh mục

Mùa Thường Niên | Phụng vụ năm C

Thánh Brunô linh mục | 06.10.2023

Thánh Brunô, đấng sáng lập dòng Chartreux, qua đời ngày 6.10.1101 trong sa mạc La Torre, thuộc vùng Calabria (nước Ý). Tuy ngài không hề được phong thánh chính thức, nhưng lễ nhớ ngài được đưa vào phụng vụ địa phương của dòng Chartreux năm 1514 bằng phép miệng của Đức giáo hoàng Lêô X, rồi được đưa vào phụng vụ Rôma năm 1584 và cuối cùng được đưa vào các sách phụng vụ Rôma, qua một sắc lệnh của Thánh Bộ Lễ Nghi năm 1623.

Sinh năm 1035 ở Cologne (nước Đức) trong một gia đình quí tộc, Bruno de Hartenfaust bắt đầu đi học tại trường Thánh Cunibert ở Cologne, sau đó học trường nổi tiếng của nhà thờ lớn Reims. Năm 1056, ngài trở thành hiệu trưởng và thầy dạy nổi tiếng của trường này. Sau khi thụ phong linh mục, ngài được bổ nhiệm làm kinh sĩ nhà thờ lớn và chưởng ấn của toà tổng giám mục. Chính trong thời kỳ này, ngài xuất bản hai tác phẩm Bình luận về các Thánh vịnh và các Thư thánh Phaolô.

Danh xưng Thầy Bruno được sử dụng cho tới cuối thế kỷ XV xứng với danh tiếng của “nhà hùng biện, thông thái trong mọi lãnh vực văn chương, tiến sĩ của các tiến sĩ…” Là người bênh vực cuộc cải cách Hội Thánh của Đức Giáo Hoàng Grêgoire VII, ngài dũng cảm chống lại thói buôn thần bán thánh và sự suy đồi đạo đức của hàng giáo sĩ. Vì chống đối Tổng giám mục của mình là Manassès, một con người mại thánh và bất xứng, ngài bị vị này cất chức và tịch biên tài sản. Cuộc tranh chấp kết thúc với việc Tổng giám mục bị giáng chức, còn thánh Brunô thì ra đi với hai người bạn, đến ẩn dật tại tu viện Dòng Molesme, ở Sèche-Fontaine (Aube) năm 1083. Một năm sau, ngài cùng sáu người bạn đi đến Grenoble. Ngài được giám mục Hugues tiếp đón niềm nở và đưa tới vùng núi Chartreux (Isère), tại đây ngài lập dòng Chartreux (1084). Thế là thánh Brunô đã sáng lập một nếp sống tu dòng mới, gần giống với nếp sống do thánh Romualđô sáng lập: Các tu sĩ Chartreux sống đời ẩn tu, hiến mình cho công việc lao động đơn độc, chủ yếu là việc sao chép các sách, nhưng cử hành phụng vụ chung với nhau.

Năm 1088, Đức giáo hoàng Urbain II (Eudes de Châtillon), từng là học trò của Thầy Brunô ở Reims, mời thầy cũ của mình tới Rôma làm cố vấn. Ngài vâng lời, nhưng một ít thời gian sau, vì vẫn khao khát đời sống cô tịch và cầu nguyện, ngài rời giáo triều, về Calabre, trong sa mạc La Torre; tại đây, ngài lập một tu viện mới, dưới sự bảo trợ của các vương công người Normand. Chính trong thời kỳ ẩn tu ở Sainte-Marie-de-La-Tour, ngài viết hai lá thư còn truyền lại tới thời chúng ta: Một thư gửi bạn ngài là Raoul le Verd, đặc sứ giáo hoàng ở Reims, và một thư gửi cộng đoàn tu viện Grande-Chartreuse.

Thánh Brunô qua đời ngày chủ nhật 6.10.1101, sau khi tuyên bố trước mặt các tu sĩ của mình lời tuyên xưng đức tin, trong đó ngài nhấn mạnh sự hiện diện thật của Đức Kitô trong phép Thánh Thể. Thi hài ngài được an nghỉ trong thánh đường tu viện Sainte-Marie-de-La-Tour. Các giai đoạn cuộc đời ngài được hoạ sĩ Le Sueur trình bày (1644 đến 1648) ; trong số các bức họa này, nổi tiếng nhất là Cuộc An Táng Thánh Brunô, tranh trưng bày tại Louvre.

(https://www.tonggiaophanhanoi.org/ngay-6-thang-10-thanh-bruno-linh-muc/)

Mời nghe các bài đọc trong thánh lễ hôm nay:
(Martha đọc)

Nghe Bài đọc Tại đây

Bài đọc Gn 1,1-2,1.11
Ông Giôna đứng dậy để tránh nhan Đức Chúa.

Khởi đầu sách ngôn sứ Giô-na.
Có lời Đức Chúa phán với ông Giô-na, con ông A-mít-tai, rằng: “Hãy đứng dậy, đi đến Ni-ni-vê, thành phố lớn, và hô cho dân thành biết rằng sự gian ác của chúng đã lên thấu tới Ta.” Ông Giô-na đứng dậy nhưng là để trốn đi Tác-sít, tránh nhan Đức Chúa. Ông xuống Gia-phô và tìm được một chiếc tàu sắp đi Tác-sít. Ông trả tiền, xuống tàu để cùng đi Tác-sít với họ, tránh nhan Đức Chúa. Nhưng Đức Chúa tung ra một cơn gió to trên biển và liền có một trận bão lớn ngoài khơi, khiến tàu tưởng chừng như sắp vỡ tan. Thủy thủ sợ hãi; họ kêu cứu, mỗi người kêu lên thần của mình và ném hàng hoá trên tàu xuống biển cho nhẹ bớt.  Còn ông Giô-na thì đã xuống hầm tàu, nằm đó và ngủ say. Viên thuyền trưởng lại gần và nói với ông: “Sao lại ngủ thế này? Dậy! Kêu cầu thần của ông đi! May ra vị thần ấy sẽ nghĩ đến chúng ta và chúng ta khỏi mất mạng.” Rồi họ bảo nhau: “Nào, chúng ta hãy bắt thăm cho biết tại ai mà chúng ta gặp tai hoạ này.”  Họ gieo quẻ và quẻ rơi trúng ông Giô-na. Họ bảo ông: “Vì ông là người đem tại hoạ này đến cho chúng ta, thì xin ông cho chúng tôi biết: Ông làm nghề gì? Ông từ đâu đến, quê ở nước nào, và thuộc dân nào?” Ông nói với họ: “Tôi là người Híp-ri, Đấng tôi kính sợ là Đức Chúa, Thiên Chúa các tầng trời, Đấng đã làm ra biển khơi và đất liền.” Những người ấy sợ, sợ lắm; họ nói với ông: “Ông đã làm gì thế?” Thật vậy, do ông kể lại mà họ được biết là ông đang trốn đi để tránh nhan Đức Chúa. Họ hỏi ông: “Chúng tôi phải xử với ông thế nào để cho biển lặng đi, không còn đe doạ chúng tôi nữa?” Quả thật, biển càng lúc càng động mạnh. Ông bảo họ: “Hãy đem tôi ném xuống biển thì biển sẽ lặng đi, không còn đe doạ các ông nữa, vì tôi biết là tại tôi mà các ông gặp cơn bão lớn này.” Những người ấy cố chèo vào đất liền, nhưng không thể được vì biển càng lúc càng dữ dội, khiến họ kinh hồn bạt vía. Họ kêu cầu Đức Chúa và thưa: “Ôi, lạy Đức Chúa, ước gì chúng con không phải chết vì mạng sống người này, và xin đừng đổ máu vô tội trên đầu chúng con; vì lạy Đức Chúa, chính Ngài đã hành động tùy theo sở thích.” Sau đó họ đem ông Giô-na ném xuống biển. Biển dừng cơn giận dữ. Những người ấy sợ Đức Chúa, sợ lắm; họ dâng hy lễ lên Đức Chúa cùng với lời khấn hứa. Bấy giờ, Đức Chúa khiến một con cá lớn nuốt ông Gio-na. Ông ở trong bụng cá ba ngày ba đêm. Rồi Đức Chúa bảo con cá, nó liền mửa ông Giô-na ra trên đất liền. Đó là lời Chúa.

Nghe Bài Tin Mừng Tại đây. 

Tin Mừng: Lc 10,25-37
Ai là người thân cận của tôi?

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo thánh Luca.
Một hôm, có người thông luật kia muốn thử Đức Giê-su mới đứng lên hỏi người rằng: “Thưa Thầy, tôi phải làm gì để được sự sống đời đời làm gia nghiệp?” Người đáp: “Trong Luật đã viết gì? Ông đọc thế nào?” Ông ấy thưa: “Ngươi hãy yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn, hết sức lực, và hết trí khôn ngươi, và người thân cận như chính mình”. Đức Giê-su bảo ông ta: “Ông trả lời đúng lắm. Cứ làm như vậy là sẽ được sống”. Nhưng ông ấy muốn chứng tỏ là mình có lý, nên mới thưa cùng Đức Giê-su rằng: “Nhưng ai là người thân cận của tôi?” Đức Giê-su đáp: “Một người kia từ Giê-ru-sa-lem xuống Giê-ri-khô, dọc đường bị rơi vào tay kẻ cướp. Chúng lột sạch người ấy, đánh nhừ tử, rồi bỏ đi, để mặc người ấy nửa sống nửa chết. Tình cờ, có thầy tư tế cũng đi xuống trên con đường ấy. Trông thấy người này, ông tránh qua bên kia mà đi. Rồi cũng thế, một thầy Lê-vi đi tới chỗ ấy, cũng thấy, cũng tránh qua bên kia mà đi. Nhưng một người Sa-ma-ri kia đi đường, tới ngang chỗ người ấy, cũng thấy, và chạnh lòng thương. Ông ta lại gần, lấy dầu lấy rượu đổ lên vết thương cho người ấy và băng bó lại, rồi đặt người ấy trên lưng lừa của mình, đưa về quán trọ mà săn sóc. Hôm sau, ông lấy ra hai quan tiền, trao cho chủ quán và nói: “Nhờ bác săn sóc cho người này, có tốn kém thêm bao nhiêu, thì khi trở về, chính tôi sẽ hoàn lại bác”. Vậy theo ông nghĩ, trong ba người đó, ai đã tỏ ra là người thân cận với người đã bị rơi vào tay kẻ cướp?” Người thông luật trả lời: “Chính là kẻ đã thực thi lòng thương xót đối với người ấy”. Đức Giê-su bảo ông ta: “Ông hãy đi, và cũng hãy làm như vậy”. Đó là lời Chúa.

Ecoutez la lecture ici
Par hasard, un prêtre descendait par ce chemin ; il le vit et passa de l’autre côté. De même un lévite arriva à cet endroit ; il le vit et passa de l’autre côté. Mais un Samaritain, qui était en route, arriva près de lui ; il le vit et fut saisi de compassion. Il s’approcha, et pansa ses blessures en y versant de l’huile et du vin ; puis il le chargea sur sa propre monture, le conduisit dans une auberge et prit soin de lui. (Lc 10, 25-37)

Bài liên quan

Back to top button